Bình - nguyên Lộc
Sau khi tường trình xong
về công việc của Ban Trị Sự vừa mãn
nhiệm kỳ hôm nay, ngày cuối năm dương
lịch 1964, ngày nhóm Đại Hội thường niên, và
trước khi bầu Ban Tri Sự mới, với lại
trước khi ngồi vào bàn tiệc, cũng thường
niên, tổ chức ở sân nhà ông Hội Trưởng
của „Hội Tương Tế tỉnh B“ ông Hội
Trưởng cao niên, hiền lành, dễ thương
của cái „đồng hương hội“ ấy than:
- Bà
con cô bác ơi, mấy năm nay Ban Trị Sự khổ
sở nhứt, không phải vì vấn đề tài chánh,
thường là bài toán bể đầu đối với
các hội nho nhỏ như ta, không có cơ sở kinh tài,
chỉ đứng vững tương đối và
tạm bợ dựa vào tiền niên liễm của anh
chị em hội viên, mà khổ sở vì một chuyên
lặt vặt mới kỳ cho chớ!
Ông Hội Trướng
nầy và Ban Tri Sự của hội cứ được
bầu đi bầu lại mãi, nên ông biết rõ mọi
vấn đề như bất kỳ những
người có trách nhiệm nào mà giữ chức vụ
một cách trường kỳ.
- Về
chuyên gì đó a... ông Hội Trưởng?
Một vị hội viên
cũng rất cao niên, người ủng hộ tài chánh cho
đồng hương hội tỉnh B hỏi như
vậy. Ông nầy rất giàu có và nhứt là rất tốt
bụng, lần nào hội túng tiền, ông cũng giúp
đỡ cho, nếu đó là một số tiền lớn
thì ông cho mượn, bằng như hội cần năm
ba ngàn, ông luôn luôn tặng không.
- Về
cái nghĩa trang é mà! ông Hội Trưởng đáp.
- Sao,
nghĩa trang làm sao?
Vị ủng hộ viên
nầy cũng gần tới tuổi quay đầu về
núi rồi nên ông rất chú tâm đến cái nơi an
nghỉ cuối cùng của ông trong một tương lai có
lẽ rất gần đây. Ông đoán rằng đây là
vấn đề hàng rào dây kẽm gai, chớ không có gì
lạ, nhưng vẫn tò mò và nóng lòng biết đích xác ngay
sự việc. Ban Trị Sự thấy cái hàng rào ấy
rất cần thiết để ngăn ngựa, bò, heo,
chó xâm phạm nghĩa địa, nhưng nghe đâu như
Ban Trị Sự chưa gom đủ tiền để
đúc trụ bê-tông và mua kẽm.
Phía trong chợ ông Tạ có
một khu nghĩa trang cho gần hai mươi tỉnh
của miền Nam. Non hai mươi nghĩa trang ấy
nằm khít ranh với nhau. Tỉnh B quá gần Sài gòn nên chi
từ ngày thành phố nầy được thành lập
cho tới năm ấy, người gốc tỉnh đó
không tậu nghĩa trang riêng, ai có kha khá tiền thì
đưa xác người thân về quê, không tốn kém bao
nhiêu, ai nghèo lắm thì nằm đất ở nhà chùa
ngoại ô nào đó. Nhưng từ những năm có
biến cố, việc đưa xác về quê rất
bất tiện nên nghĩa trang nầy mới
được thành lập, sanh sau đẻ muộn
hơn các nghĩa trang khác, nó nằm ở biên khu, không
được các nghĩa trang lân cận che chở cho
ở tới ba mặt, thường bị thú vật nhà
của ngoại ô xa nầy phá quấy.
- Thưa
hiền hữu, ông Hội Trưởng đáp, nói cho
đích xác ra, thì đó là vấn đề người coi
sóc nghĩa trang...
- Vậy
à? Tôi cứ tưởng... Còn hàng rào?
- Hàng rào thì đã làm xong rồi.
Người coi sóc nghĩa trang mới là bài toán bể
đầu. Năm rồi, Ban Trị Sự đã phải
thay ba người, mà người cuối cùng cũng
lại xin thôi việc, vào dịp Tết ta tới đây,
tức là sau hai tháng nữa là phải tìm cho được
người mới để thay cho y.
Không ai ngạc
nhiên hết. Đời bây giờ, công ăn việc làm quá
nhiều, dân tộc ta có đông đúc hơn xưa bao
nhiêu, cái yếu tố người cũng cứ
tương đối ít, ngoại nhân lại trả
lương cao lại rất khó lòng mà giữ công nhân, ngành
hoạt động nào cũng mắc phải nạn
thiếu người hết. Phương chi khoản thù
lao cho một người săn sóc các nghĩa trang nho
nhỏ, thật là ít oi thì đó là một chỗ làm không
được hoan nghinh bao giờ.
Ông Phán Ty
hỏi:
- Tôi nghe nói hội nhà cho y
độc quyền đào huyệt để y kiếm thêm
chút đỉnh nuôi vợ con, nghĩa là tương
đối cũng đã đủ sống ra. Như
vậy sao y còn...
Ông Tham sự
trẻ tuổi tên là Cần, không đợi ông Hội
Trưởng trả lời, cãi lại với người
vừa có ý kiến:
- Đủ sống nghĩa là
chỉ đủ ăn cơm mà thôi. Y rất chánh đáng
mà tham vọng được uống cà-phê, được
nhậu la-de như bao nhiêu công nhân khác. Vả lại
người công nhân nào thấy phu xích lô đạp kiếm
mỗi tháng mười ngàn đồng (1) lại không ham
kiếm được tiền nhiều hơn với
một nghề khác.
- Thưa quí vi hội viên với
lại bà con cô bác, không phải như vậy đâu, ông
Hội Trưởng đính chánh. Tất cả đều
đòi thôi việc để về xứ.
- À, cái đó thì hơi khó hiểu. Ông
kỹ sư Minh nhận xét. Ngỡ họ thôi việc
để đi làm phu cho các hãng thầu Huê kỳ thì còn có
lý do, chớ còn bỏ chỗ làm để trở về
những làng xa kém an ninh mà họ đã phải rời thì thật
là kỳ. À, hình như ông Hội Trưởng có cho biết
là phải nông dân mới làm nghề đó được
hả?
Ông Hội
Trưởng xác nhận:
- Ừ, mà nhứt là phải là nông
dân chơn ướt chơn ráo mới tới ở thành
phố. Thứ nhứt, chỉ có hạng người
đó mới nhận một chỗ làm ít lương
như vậy, trong khi chờ đợi tìm được
chỗ tốt hơn. Kế đó, họ là người không
sợ ma. Quanh nghĩa địa là bụi rậm, là
chồi cây, là tre gai, là đồng trống, là bóng tối
dày đặc về đêm, dân thợ ở thành phố
quen sống chen chút với nhau từ lâu ở những
nơi sáng trưng đèn điện, đâm ra nhát như
trẻ con, sợ ma lắm, phương chi họ lại
cất chòi gần ma thật sự, chớ không phải là
ma tưởng tượng. Khu nghĩa địa ấy
còn có các nghĩa địa khác nữa, như là nghĩa
trang của người Ăng lê chẳng hạn, nếu
có ma thì ma ở đó đông hằng vạn chớ có phải
là một hai con đâu.
Cử
tọa cười ồ lên, giây lát sau trận cười
dứt, ông ủng hộ viên tài chánh hỏi:
- Nhưng các nghĩa trang khác thì
họ giải quyết vấn đề ấy cách nào?
- Dạ thưa ông anh, họ không có
vấn đề ấy như ta. Các nghĩa trang khác có
đã lâu đời rồi, khiến nghĩa trang đã
được bốn thế hệ người chôn trong
đó, ở lắm nghĩa trang như nghĩa trang của
tỉnh Sa đéc, người coi sóc nghĩa trang cha
truyền con nối, họ đâu có xin thôi, còn các nghĩa
trang tương đối ít lâu đời hơn, thì
cũng đã cao niên lối bốn năm mươi
tuổi, người coi sóc lại đã quá già, không tính
chuyện đổi nghề vào lúc họ bảy
mươi nữa.
- Họ có nói họ về xứ
để làm gì hay không?
- Ai cũng nói họ nhớ nhà.
- Khung cảnh ở đó y hệt
như ở nhà quê, cũng có tiếng gà gáy khuya, tiếng cu
gù trưa, tiếng chim hát sớm và chiều, thì tôi
tưởng họ tạm quên được nỗi
nhớ nhà sầu xứ chớ?
Người
nói ra các ý nghĩ trên đây là một ông giáo sư về
hưu, và câu nói của ông có vẻ văn nghệ, tâm lý,
triết lý lắm nên cả đại hội đồng
đều đồng ý với ông, và vì vậy mà họ
càng ngạc nhiên hơn trước, cái nước liều
không cần thiết lắm của mấy anh coi sóc
nghĩa trang tỉnh nhà trong mấy năm nay. Vâng, đã
bỏ làng vì lý do bất an ninh, lại quyết trở
về làng trong khi tìm được một nơi không làm
cho họ lạc hướng lắm, và sự liều không
cần phải liều.
Chỉ
có một vi bác sĩ trẻ tuổi là mỉm cười
một cách bình thản. Người hội viên nầy
hẳn còn sống rất lâu, ông ta vào hội, chắc
chỉ đã có đất mà chôn ông, chôn cha gì đó thôi,
chớ không phải vì ông ta chút nào.
Cử
tọa làm thinh hơi lâu nên người hội viên trẻ
tuổi nầy mới dám có ý kiến. Ông ta biết kính lão
mà đây là một hội mà đa số hội viên là
những ông cụ thất tuần.
- Thưa ông Hội Trưởng, ông
bác sĩ Xuân ấy nói, nếu ông Hội Trưởng cho
phép, tôi hy vọng sẽ thuyết phục người
đó được.
Ông
Hội Trưởng cười hiền lành mà rằng:
- Sao lại cho phép? Chính tôi phải
yêu cầu bác sĩ giúp cho Ban Trị Sự thoát khỏi cái
nước bí nầy ấy chớ.
- Với lại, bác sĩ Xuân thêm,
dầu sao rồi tôi cũng cần được phép
của ông Hội Trưởng để thực hiện
vài điều lặt vặt trong nghĩa đia.
- Bác sĩ trọn quyền hành
động.
Vấn
đề xem như đã được thông qua,
người ta bầu Ban Trị Sự mới và vì Ban
Trị Sự cũ làm việc đắc lực trong
nhiều nhiệm kỳ liên tiếp nên cuộc bỏ
phiếu chỉ là một thủ tục lấy lệ mà
thôi.
Thế
rồi bao nhiêu người đồng hương ấy,
thuộc đủ giai cấp, đủ nghề
nghiệp, ngồi lại bàn tiệc tất niên và từ
đó cho đến khuya, chỉ còn tiếng cười
nói, chớ không ai nêu ra vấn đề rắc rối nào
nữa hết.
Không
biết sau đó cái ông bác sĩ Xuân ấy đã gạt
gẫm anh nông dân chất phác kia thế nào mà rồi anh ta
bằng lòng ở lại, không những không xin thôi nữa,
mà là năm ấy anh ta cũng không về quê ăn Tết
như năm trước đó.
Thường
thì những chuyện làm điên đầu, không ai buồn
xía vào làm gì, nếu có kẻ đưa lưng ra gánh vác.
Trong trường hợp nầy, kẻ ấy là Ban Trị
Sự, mà Ban Trị Sự đã không kêu than nữa thì
họ an lòng rồi, hơn thế có nhớ tới vấn
đề, họ cũng lờ đi, sợ khui chuyện
ra, mỗi người lại phải nghe than nữa thì
mệt lắm, lại còn có thể được yêu
cầu đưa vai ra đỡ phụ thì càng mệt
hơn.
Mãi
cho tới năm 1966, cũng trong một bữa tiệc
thường niên vào dịp cuối năm, ông ủng
hộ viên vụt hỏi ông Hội Trưởng giữa
hai ly rượu:
- À, tôi chợt nhớ lại vụ
người coi sóc nghĩa trang cho hội nhà. Bây
giờ người ấy là ai? Có đòi thôi việc vì
nhớ nhà như bao nhiêu người trước hay không?
Tôi cứ bị cái chết của chính tôi ám ảnh tôi hoài
nên tôi quên tất cả mọi chuyện khác.
Ông Hội
Trưởng bật cười:
- Nhưng ông anh vẫn sống hoài
để uống rượu với người
đồng hương mỗi năm một lần. Chúc
ông anh sống thêm mười năm nữa.
- Cám ơn ông Hội Trưởng. Dầu
sao rồi tôi cũng theo ông theo bà ngày nào đây, nên chi tôi
lại ích kỷ, lo trong ấy bị bỏ bê.
- Dạ, không những nghĩa trang
không bị bỏ bê, lại còn đẹp hơn bao giờ
hệt, đẹp hơn tất cả nghĩa trang
của mười mấy tỉnh khác.
Ông kỹ
sư Biện xác nhận sự kiện, phụ họa
với ông Hội Trưởng, lại trách cứ
người trong hội:
- Đúng là đẹp hơn các
nghĩa trang khác nhiều lắm. Các nghĩa trang khác, cái nào
cũng u buồn, còn nghĩa trang nhà thì rực rỡ màu
sắc, nhìn vô đó, ta cứ tưởng đó là một
vườn hoa. Bà con tệ lắm, ít có ai vô thăm
nghĩa địa, trừ vài người hội viên
hiếm hoi nhà có tang ma.
Ông ủng
hộ viên tài chánh cười ha hả mà rằng:
- Ai
cũng sợ nghĩa địa nhắc nhở cái
chuyến đi du lịch không được vui trong
đời con người nên nghĩa trang không bao giờ là
chỗ ngoạn cảnh của ai được hết.
Ông Hội
Trưởng nói lên một sự kiện không hãnh diện
cho lắm về các hội viên nói riêng, về loài
người nói chung. Sợ
chết hình như là ơ... hơ... tuy rất tự nhiên,
nhưng đồng thời cũng rất là kém triết
lý! Sao lại sợ một việc tự nhiên, không tránh
được?
Một
ông thư ký về hưu nói nữa:
- Có, các hội viên có vô trong ấy
chớ sao không! Đó là những hội viên có mồ mả
người thân trong ấy. Chỉ phiền là họ đã
hết hội viên rồi. Hễ họ hưởng xong cái
quyền lớn nhứt của một hội viên, nghĩa
là lấy xong một chỗ nằm cho cha, mẹ, vợ,
con, rồi thì họ rút lui êm thắm, không đóng tiền
nguyệt liễm nữa.
Ông ủng
hộ viên trở lại vấn đề người coi
sóc nghĩa trang:
- Nhưng tôi vẫn chưa biết
vấn đề nhân công ấy đã được
giải quyết một cách vĩnh viễn chưa.
- Thưa ông anh, đã giải
quyết ổn thỏa xong từ năm ấy. Cũng
vẫn cứ là người cũ.
- Hay lắm, y hết nhớ nhà
rồi hả?
- Dạ!
- Ông bác sĩ trẻ tuổi tên gì
đó, ông ấy thuyết phục giỏi như
Trương Nghi, Tô Tần. Ông ấy đâu rồi? Bà con ta
phải thưởng ông ấy mỗi người một
ly rượu mới được.
Mọi
người đưa mắt sang khắp các bàn tiệc
đó tìm kiếm con người có công ấy; nhưng không
ai tìm được người đó hết.
Một
người tư chức trẻ tuổi lên tiếng:
- Ông Xuân ổng đã đi quân
dịch từ hai năm nay rồi.
- Vậy à? Chắc ông ấy ở
tiền tuyến xa nên từ hai năm nay, nhớ ra thì ông
ấy không có mặt trong hai bữa tiệc cuối năm.
Nhưng ông ấy đã nói làm sao mà rồi người coi
sóc nghĩa địa bằng lòng ở lại vậy a ông
Hội Trưởng?
- Thật ra. thì ông ấy không có nói
gì hết với người đó, hay không có nói hơn
một câu ngắn.
- Lạ! Chắc cái câu ấy là câu
thần chú sao mà!
- Cũng không phải vậy. Ông
ấy can thiệp để tôi cho phép người đó
trồng bông thọ ngay trong nghĩa trang để bán
ở các chợ Tết, qua trung gian các hàng bông hoa. Đó là
chuyện tết năm ấy. Sang Giêng lại, thì ông
ấy lại can thiệp để tôi cho y trồng
đủ thứ bông hoa, nhứt là bông huệ, cần
trồng trụ khá lớn cho cây huệ dựa. Bây giờ
thì y đã giàu ra, vì bông huệ bán rất được
tiền, và nhờ vậy mà nghĩa trang nhà cứ thơm
tho, tươi tốt quanh năm.
- Nhưng mà y làm nghề đó, choán
chỗ lắm!
- Thưa ông anh với lại bà con,
không choán chỗ đâu. Nghĩa trang nhà còn mới,
đất trống còn nhiều. Vả lại, bông hoa
mềm yếu, rất dễ nhổ bỏ đi mà không gây
thiệt hại nặng cho người trồng. Nói thí
dụ mà nghe chớ bỗng dưng ta cần chỗ cho
một vài trăm huyệt mả, một cách thình lình, thì y
cũng sẽ thỏa mãn ta được, vì bứng
bỏ bao nhiêu cây bông hoa trong cái diện tích cần ấy,
không làm tốn hơn hai tiếng đồng hồ, còn
về thiệt hại vật chất và tài chánh thì y
chỉ mất lời chớ đâu có bỏ ra bao nhiêu
vốn mà phải lỗ. Vả lại, theo tôi thì y cũng
sẽ khỏi phải bứng cây cho nhọc xác, cứ
để vậy, phu đào huyệt giậm lên đó
như giậm lên cỏ, có thể còn sướng chơn
hơn là giậm lên cỏ nữa.
- Y khá lên như vậy hèn gì mà y vui
lòng ở lại. Dầu sao ông bác sĩ ấy cũng
giỏi, chỉ giản dị có thế thôi, mà ta không
nghĩ ra được.
- Thưa bà con cô bác, sự thật
thì không phải chỉ giản dị như vậy đâu.
Đây là một vấn đề triết lý về con
người chớ không phải chuyện tiền bạc
đâu.
- To chuyện dữ vậy lận sao?
- Dạ. Đó là chuyện lớn
thật sự. Ban đầu tôi cũng ngỡ chỉ có
như vậy, nhưng sau, một hôm vui miệng, tôi
hỏi ông bác sĩ Xuân, ổng nói ra sự thật, tôi
mới biết đâu là đâu.
- Vậy sự thật có gì bí
ẩn?
- Quả thật, bây giờ kiếm
được nhiều tiền rồi thì người coi
sóc nghĩa trang đâm ra mê tiền, ta mà có đuổi y
đi, y cũng sẽ van nài để ở lại... vì
tiền. Nhưng năm ấy thì y không hề ham tiền,
không hề xin thôi vì lương thấp. Y chỉ cần
thứ khác mà thôi.
- Thứ gì?
- Chính triết lý là ở đó và bí
quyết của bác sĩ Xuân ở đó, chớ thật ra
ông ấy ăn nói rất dở, không thuyết phục
được ai hết đâu.
- Bây giờ thì bà con tôi rất nóng
lòng biết cái chuyện ngộ nghĩnh và mới lạ
đó.
- Ông bác sĩ Xuân ấy cho tôi
biết rằng có một ông bác sĩ ở đâu bên Tây bên
Mỹ gì đó tôi cũng không nhớ nữa, hình như tên
là bác sĩ Soubiran. Ông bác sĩ Soubiran ấy đã khám phá ra
những điều sau đây là dân thợ ở các thành
phố, mức sống cao hơn nông dân nhiều, nhưng
lại cứ yêu sách đòi tăng lương hoài, và có
tăng tới đâu họ vẫn không nghe được
thỏa mãn. Lương đủ sống như ở
Bắc Âu, họ vẫn đình công đòi tăng
lương. Không phải là họ thiếu thiện chí
hoặc tham lam hơn thợ nông nghiệp ở thôn quê
đâu, mà thật sự họ nghe không có hạnh phúc,
lương cao tới đâu cũng không giúp họ có
hạnh phúc được, nếu ta không tìm được
lối ra thật đúng.
Cái lối ra
thật đúng đó là tình yêu nghề của họ.
Thợ thuyền, trước khi thành thợ, là nông dân.
Họ tới thành phố, không cơ quan nào hướng
nghiệp cho họ hết, theo khả năng và sở thích
của họ, và họ thành thợ điện hay thợ
sơn một cách rất là tình cờ, rất là may rủi.
Người
thợ nông nghiệp thì không bao giờ mắc phải cái
nạn “ép duyên” đó. Họ yêu đất, yêu mùi
đất và họ được yêu cho tới mãn
kiếp.
Đất có
mùi thật sự, nhứt là đất mới xới,
một mùi rất đặc biệt mà mũi họ quen
ngửi cho đến ghiền, thiếu thì họ nghe thèm.
Họ thấy rằng họ hạnh phúc vì họ
được thỏa mãn tình cảm. Tình nhớ xứ,
nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm mùi
đất là một yếu tố quan trọng. Nỗi thèm
nầy có khi mãnh liệt như nỗi thèm mùi khói thuốc
phiện của những con thằn lằn, những con
chuột lắt sống trong buồng của những
kẻ hút thuốc phiện, họ thèm và nhớ mùi
đất y như là đào hát thèm và nhớ sân khấu,
vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y như là cá thèm và
nhớ nước. Cá nhớ nước không phải là
một hình ảnh đâu và đừng tưởng là cá
không ở được ngoài nước.
Ở các
chợ, các hàng cá, luôn luôn để cá lóc trong các rổ
thường, loại cá nầy sống được
ngoài nước nhiều tiếng đồng hồ
liền, nhưng chúng cứ ngáp mãi, y như là ta thèm một
điếu thuốc, một tách cà phê.
Vậy họ
nhớ nhà, nhớ xứ là nhớ mùi đất ở
phần lớn. Tạo điều kiện cho họ
trồng trọt được là họ tạm nguôi
sầu,và lần lần quen được với môi
trường mới.
Và quả
đúng y như vậy. Khi tôi gợi ý cho y gieo bông thọ
để trồng bán Tết, thì mắt y sáng lên và y
tức tốc đi tìm bông giống liền. Hôm sau đó, y
dang nắng mà cuốc dở đất một cách sung
sướng, chẳng khác nào ếch và ễnh ương
mừng mưa mới.
Ông Hội
Trưởng kể xong, bao nhiêu thực khách chung bàn với
ông, nhìn nhau, lặng lẽ hỏi nhau điều ấy có
đúng hay là không. Một hồi lâu, ông giáo Quyền cũng
ngứa miệng kể chuyện, nên ông bắt đầu
thuật tích cũ trong gia đạo ông:
- Tôi nhớ năm ấy, tôi đang
dạy học ở Bến tre. Tôi cưới bà nhà tôi
ở tỉnh ấy. Được hai năm thì một
cuộc thuyên chuyển đưa tôi lên Sài gòn. Bà nhà tôi
chưa có con, và ít công việc nên tối ngày bà ấy cứ
ngồi bó gối mà buồn. Bà ấy cứ nài nỉ tôi
xin thuyên chuyển trở về tỉnh nhà của bà
ấy.
Chợt
một bữa kia không biết nhờ gì gợi ý bà nhà tôi
đi mua chậu, đi tìm đất, ra đặt mấy
cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên
và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, hành
hương, ớt, không mấy tháng mà sân trong không còn
chỗ để chơn nữa vì chậu cứ
được sắm thêm hoài, thật là bất tiện.
Thuở ấy rau cỏ có bao nhiêu tiền đâu, đi
chợ mua hai xu, cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai
xu chỉ bằng hai đồng bạc ngày nay. Bà ấy
lại không còn thì giờ nghỉ ngơi nữa, hễ
sáng, vừa bét mắt thì lo săn sóc ba chậu rau không
đáng giá đó, trưa cũng vậy, chiều cũng
vậy. Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui
vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi
mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi
đâu nữa hết, mãi cho tới bây giờ mà tôi đã có
cháu ngoại rồi.
Sở dĩ
tôi phải lùi ra ngoại ô xa mà ở, chỉ vì sau đó bà
nhà tôi thèm trồng cây lớn để được
xới đất nhiều hơn là đất trong các
chậu. Ngày nay thì sân nhà tôi không thiếu gì hết, từ
cây chanh, cây khế, cho
đến cây mít, cây me, nhứt là tôi có được hai
cây dừa mà bà nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì
quê bà ấy là xứ dừa, trồng dừa cho đỡ
thèm hình bóng cây dừa.
Ông ủng
hộ viên tài chánh hỏi:
- Nhưng ngày kia, nghĩa trang khá
đầy rồi, không còn đất để trồng
trọt nữa, ta làm sao giữ được
người ấy?
- Ông anh chớ có lo. Nghĩa trang còn
nhiều năm nữa mới đầy, bởi hội
viên thất tuần như ông anh mà cứ còn khỏe
mạnh hoài thì làm sao nó đầy được. Như
vậy, y đủ thì giờ già để bằng lòng an
phận với công việc của y là gìn giữ nghĩa
địa.
------------------
(l) Con số của năm 1964.
No comments:
Post a Comment