Bình
Nguyên Lộc
Gõ
cửa đến ba, bốn hiệp, mà không thấy bóng ai,
cũng không nghe ai lên tiếng, tôi gọi to:
- Có ông chủ ở nhà không?
- Ai đó? Mạnh
hả, đi tuốt xuống đây.
Tiếng
anh Thành nghe xa lắm, ở mãi dưới bếp.
Tôi
bước vào buồng khách và ngần ngại đứng
dòm ra sau. Thành, chắc hiểu ý tôi, nên bảo nữa:
- Đi xuống đây mà. Nhà không
ai hết.
Tôi
quen nhiều với anh Thành, mà không là bạn thân với anh
ấy, nên tôi chưa xông pha nhà nầy lần nào cả, vì
còn phải giữ lễ với chị Thành.
Hôm
nay, chắc chị Thành đưa con về quê nghỉ mát,
nên nhà vắng và anh Thành, chắc đang đun nước
ngoài sau.
Nhưng
đi đến nơi, tôi ngạc nhiên hết sức: anh
Thành mặc bi-da-ma, coi có vẻ trai thế kỷ hai
mươi lắm, nhưng anh ta lại đang đứng
say sưa ngắm một cảnh non bộ, đặt
ở giữa sân trong.
- Cha, có gắn hòn non bộ trong
nhà à? Sao không bao giờ nghe cha nói đến?
Tôi
hỏi, sau mấy phút chưng hửng nhìn bạn.
- Các anh hiểu gì mà nói cho mệt. Không
phải tôi gắn đâu nhé. Mới gắn gì mà rêu đã
phủ xanh các gộp đá, mới gắn, nó đâu
được vẻ cổ kính như vầy. Số là cái
ông nào đó, trước ở đây, chừng như lâu
lắm, đã tạo nên cảnh thiên nhiên nầy. Rồi ông
đi hay chết mất, bộ giả sơn truyền qua
không biết bao nhiêu người, bị bỏ bồ
lăn, bồ lóc, bây giờ mới đến tay tôi.
Tôi
nhớ, thuở tôi còn nhỏ, ông tôi cũng chơi non
bộ, nên tôi hơi biết thưởng thức món đó.
Quả
thật, hòn núi giả nầy rất đẹp. Nó
đẹp vì đấp khéo. Những phiến đá,
những khối xi-măng như là vứt bừa bãi lên
đó, không tố giác được công trình của tay
người. Y như là một khối đá tự nhiên
bị nước đào mòn, khuyết đi một cách
không lề lối. Nó lại đẹp vì vẻ cổ kính
của nó, Năm tháng, gió sương, mưa nắng đã
thổi sanh khí vào hòn non bộ ấy, tạo cho nó một
sức sống mãnh liệt. Một lớp rêu xanh mịn,
mướt lông nhung phủ kín mặt đất và từ
mỗi hốc đá, mọc ra, từ bao lâu rồi không
biết, đủ thứ cỏ rong. Nhìn hòn giả sơn,
không khỏi nghĩ đến rừng núi thâm u, ngàn năm
chưa thấy dấu chơn người.
Tôi
theo Thành vào nhà, cái nhà lá nho nhỏ, mà anh gọi là thảo
lư. Cái tiếng thảo lư nầy, cùng với mớ
tranh Tàu treo trên vách, khiến tôi thấy Thành có vẻ Tàu lắm,
hay có ý muốn thành Tàu lắm, một thứ Tàu đâu
hồi cổ sơ, Tàu của thời Xuân Thu, Tàu
đầy thơ mộng và đông đúc những Tiên.
Tự
nhiên là Thành cho tôi uống trà Tàu. Thường thường,
anh Thành uống trà hơi ấm thôi, uống cả ly
lớn. Nay anh và tôi uống chén nhỏ, nước trà
thật nóng.
- Đó, anh hớp từng
hớp, rồi đừng nói gì, cứ nhìn cảnh rồi
suy tưởng.
Lẽ
cố nhiên là tôi không nói gì trước người con trai
biết ham thích sống ồn, sống hoạt, bây giờ
biến thành một ông Tàu ngậm ống điếu dài,
hay một nhà Nho, móng tay dài cũng thế.
Tay
nâng ngang môi chung trà xưa, mà nét vẽ rất thanh đạm
trên men ngà, Thành như chìm trong bồn cá Tàu giữa bàn. Cá
nhiều màu lượn quanh những thủy thảo
mọc lên trên một nền sạn trắng và đá biển,
cũng hiểm hóc như hòn non bộ.
Chịu
không nổi sự im lặng mãi, tôi nói:
- Anh còn thiếu một món nữa
mới thành một ông Tàu hoàn toàn.
- Món gì?
- Chim.
- Phải, thiếu chim.
Nhưng tôi thấy chim lồng không đẹp, nên thôi không
nuôi.
- Nhưng còn những
cái nầy, không ở trong lồng sao? Anh đem nước
non, trời biển thu nhỏ lại trong một góc
vườn, một bồn kiểng, còn đẹp gì
nữa.
- Ấy mà đẹp. Chính vì
thu lại được, nó mới đẹp. Mà thu lại
là cả một nghệ thuật đấy nhé! Con chim thì
thấy nó ở trong lồng thật sự, có cái gì nhơn
tạo trong đó, chán quá.
Anh coi
như cây tùng và cây chùm nụm ngoài sân kia, nếu tôi
trồng dưới đất, nó sẽ lớn. Nhưng
nó không đủ sức lớn để trở thành cây
cổ thụ trong rừng sâu.
Bây
giờ tôi ép nó mọc trong chậu, thiếu chất ăn,
nó thành cằn cỗi như cây già trên núi. Coi hay lắm.
- Bệnh lao phổi có
dính dáng gì đến sở thích kỳ dị của anh
chăng?
Anh Thành đau
phổi đã ba năm rồi, và nhờ khéo chữa nên
đã khỏi.
Anh Thành
ngả lưng lên ghế cười ha hả:
- Anh lầm to, như bao nhiêu
người khác. Tôi vẫn có sở thích nầy từ lâu
rồi, tôi vẫn chơi cá Tàu, non bộ, cây cảnh. Tôi chơi
từ cái lúc tôi còn đi đánh ten-nít, đi bơi lội
kia. Không, cái thú nầy không phải cái thú riêng của ông Tàu
ủ rũ, hay ông già lụ khụ. Nó vẫn đi đôi
được với sự sống ồn, trẻ và
hoạt.
Rồi
đột ngột, anh hỏi:
- Dynamique dịch ra Việt
ngữ là gì?
- Tôi dịch không nổi
tiếng đó, anh cứ tạm nói là cường sinh
đi.
- Không ổn.
Nhưng tạm dùng vậy. Anh có biết dân tộc nào
cường sinh hơn dân tộc Nhựt Bổn không?
Thế mà họ là những tay chơi cây cảnh, non bộ
sành nhứt đó.
Phải,
bịnh tật làm cho con người ủy mị, nhưng
trò chơi nầy không ủy mị chút nào như nhiều
người cứ tưởng và cứ cho đó là món
giải trí phong kiến và lạc hậu.
Ở
đời có nhiều việc, mới xem, ngỡ là trái
ngược với nhau. Nhưng thật ra, nó đi đôi với
nhau rất xứng. Ai bảo thủ bằng dân Anh.
Nhưng có phải là dân Anh làm cách mạng trước nhứt
chăng? Ai tin ma cho bằng dân Anh. Nhưng có
phải là dân Anh làm việc có phương pháp và suy luận
khoa học nhứt chăng?
*
* *
Trời
nóng bức quá. Tôi đòi nước đá.
- Không, anh chỉ được
uống trà nóng, trong thảo lư của bác Tàu cổ. Ta
phải mín đàm cho nó đúng điệu. Cả một
nghệ thuật đấy. Như tôi, tôi xem tranh ảnh
về Huế, thì thế nào cũng không khỏi ngâm bài Nam
bường
Nước non nghìn dặm ra đi...
Mượn màu son phấn
đền nợ Ô, Ly...
và bắt thèm bánh lá chả tôm. Ấy,
phải có một sự hòa hợp như vậy. Cây sì-cú
nầy, - vừa nói, anh Thành vừa chỉ chậu sì-cú trên
bàn, gần bồn cá -, riêng nó, không đẹp đẽ gì,
mà thiếu thì không được đâu. Cá Tàu phải
đi với sì-cú.
*
* *
Tối hôm
đó, trời lặng gió. Trong khi cá táp móng nghe bong bóc trong
bồn, Thành thắp hai cây đèn cầy, gắn trên hai viên
gạch rồi đem đèn để phía ngoài kia, một
cây sau hòn non bộ, một cây khác, sau chậu tùng.
Thành, như là
ở đời xưa hiện về. Anh ngồi trên ghế
bố, nhìn bóng dáng cái núi giả và cây tùng nổi bật lên
trước ánh đèn.
Tôi cả
rỡn:
- Quả thật là: yêu ngày chưa
phỉ, lại yêu đêm.
- Đó, mới lòi chỗ
dốt của anh nữa. Người ta chỉ nhìn cây kiểng
và hòn non bộ như vậy thôi. Ban ngày, con mắt bị
xao lãng vì những cái thấy khác. Vả, ban ngày cảnh
thiệt xung quanh ta lớn quá, khiến ta cứ nhớ, ta
nhìn núi giả. Giờ đây, ta sẵn lòng quên và
được quên sự thật, chỉ thấy hình dáng
của núi cao đứng sững trước mặt
trời sắp lặn.
- Thi sĩ quá.
- Anh cứ mà chế
nhạo, tôi không cần dư luận của ai hết. Giống lắm.
- Giống cái gì?
- Giống núi thật.
- Anh có đi chơi núi
rồi à?
- Cũng có chớ. Mà
việc trèo núi, ở đây, không dính dáng tới chỗ
giống hay không. Giống là giống hòn núi thật, trông đàng
xa. Còn chi tiết trên núi, tôi chưa nói đến. Cả
trăm hòn non bộ trong nước Việt Nam, chưa
dễ tìm ra được một hòn như vầy! Anh coi,
các mỏm đá không đều, không cân xứng như
ở mấy hòn khác, không có vẻ nhân tạo chút nào. Hoàn
toàn giống thiên nhiên. Nếu chụp ảnh một mình nó,
thì tôi đố ai khỏi lầm. Còn cái cây tùng và cây chùm
nụm nầy, nó giống hệt cây cổ thọ.
Tôi
nhớ ông chú tôi hồi đó hay chê dốt những
người đem cây chùm nụm uốn thành hình con
phụng, con công. Theo ông, cây chùm nụm phải có dáng tự
nhiên như cây mọc trong rừng. Theo ông, các vườn Tàu,
vườn Nhựt với những đường đi cong
quẹo, với những xó ngạc nhiên, với những
cầu tre bắc ngang suối giả, đẹp hơn
vườn Âu Châu nhiều.
Bây
giờ, ta lại nói đến chi tiết bộ giả
sơn. Nếu không phải là một tay chơi sành lắm,
thì không thể nào đắp nổi một hòn non như
vầy, các hang đá hiểm hóc, ăn sâu vào núi, trông bí
mật lạ. Nó trổ ra mặt hồ. Nếu có một
chiếc xuồng nhỏ do một người bơi
tẻ vào hang, thì ta không khỏi nghĩ đến
người Đào Nguyên lạc lối. Cái khe nước
chảy dưới cầu, để đổ ra hồ,
có vẻ sống lắm. Tuy nó cạn, mà tôi, dường
như, nghe nó thầm reo và tưởng nó đang len
lỏi, dò lần về mẹ nó là cái hồ lớn kia, chú
tiều phu vai trĩu củi và túp lều tranh đứng
co ro đằng xa kia, thật là khéo lựa. Nó nhỏ
vừa với sức lớn của núi rừng. Có
người dốt, mua ông Tiên lớn quá, hoặc cái nhà quá
to, trông nó luốt đi thành ra của họ, hòn non kêu
lớn lên luôn luôn: “Ta đây giả, ta đây giả”. Hai
ông tiên ngồi đánh cờ trên thạch bàn, gợi những
ngày không bợn lo âu. Tôi tưởng như Bạch Hạc
đồng tử bay gần đâu đó. Ngôi chùa rêu
phủ đứng cheo leo trên sườn núi đẹp vô cùng,
không khác gì tranh thủy mặc Tàu. Tôi rất yêu hình ảnh
của nước Tàu cổ, nước Tàu với
những tửu quán, trà đình với những nhà ngói
sứ, mái cong cong, với những văn nhơn bắt
gặp thơ đề trên vách một ngôi chùa xưa rêu
phủ trong rừng tùng, nét chưa ráo mực, mà nàng
tiểu thơ đề vịnh đã lâu rồi...
Nói tới
đó, Thành chỉ lên vách, tôi nhìn theo, thì nhận ra một
bức tranh, không, một tấm lụa, trên đó có
viết bằng chữ thảo, một bài thơ Tàu:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
…..
Đào hoa y cựu tiếu đông
phong.
Nét
chữ bay bướm, tung hoành, đẹp như một
bức thủy mặc với những nét vẽ phác.
Tôi nhìn Thành
trừng trừng, kinh ngạc trước con người chưa
đi thi Huế lần nào nầy, mà cứ nói đến
những chân trời xa.
- Hình như, anh ưa đi lắm
thì phải?
Tôi hỏi
để chắc bụng về ý nghĩ của tôi
đối với mâu thuẫn kỳ dị trong con
người nầy.
Thành không
đáp ngay, chỉ đặt bàn tay lên vai tôi, rồi gởi
gấm:
- Các cụ ta xưa, nhứt là
những nhà Nho lỡ vận, thích non bộ, vì họ
cố ý gạt gẫm lòng họ trong cảnh nước
non, trời biển bị thu hình, để nghe như
đã tóm thâu trần giới được trong tay họ.
Tôi bỗng
chợt hiểu rằng, giấc mơ non xa, nước
lạ của Thành, không phải do mộng đi bất
toại mà có, mà chính là kết tinh của mặc cảm
nhỏ nhoi của đời anh.
No comments:
Post a Comment