Bình-nguyên Lộc
Mặc dầu là tay „bán trời không mời thiên lôi“,
Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài.
Thánh
giá trắng đứng mơ hồ trong ánh sáng lờ
mờ của nghĩa địa, sắp thành hàng ngũ
đông đúc, nhánh ngang của thánh giá trông mường
tượng như những cánh tay người giăng ra
để đón bắt ai.
Xa
xa, một trụ vôi có dáng một người đàn bà
đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám
mồ trước mặt bà ta.
Gió
đêm, cùng với dế, trùn, họp nhau mà than vãn bên hàng
nghìn mồ hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu
vẳng nghe như có tiếng người rên rỉ đâu
đây.
Từ
một ngôi mả cũ đằng xa, một ánh lửa lóe
lên, nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi
đi bơ vơ qua các hàng thánh giá. Lửa ma trơi hay là
đèn của một người đi soi ếch nào
đó?
Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước.
Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước.
Lạnh
quá, lạnh ngoài da, mà lạnh cả đến trong lòng.
Người
sống, một khi xâm nhập vào địa hạt của
người chết, mới nhận được
rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao
nhiêu cũng còn ấm chán.
*
* *
Tại
phố Phát Diệm, khúc phía trên này, họ Cầu Kho có
một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không
cho chôn trong đó nữa.
Dân
số nghĩa địa cứ mỗi ngày một tăng
lên, mà không có một ai chết lần thứ nhì cả
để cho số sanh và số tử bù trừ nhau
hầu đất đai trống bớt chỗ.
Ngoài
thành phố, người ta đẻ con, nhưng
người ta lại chôn ông, nhà cửa thành thử không
chật thêm được. Ở đây mồ mả sanh
ra rồi già cỗi dưới rêu xanh của sương
gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến muôn thu.
Vì
vậy nghĩa địa phải chịu nạn nhơn
mãn.
Nhà
thờ không cho chôn xác thêm vào đó, rồi cũng chểnh
mảng việc trông nom đất thánh nên người
sống đang thiếu đất, bèn ùa đến mà
lấn người chết.
Nghĩa
địa không có vách thành. Ban đầu vài người
mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất thánh.
Thấy không ai nói gì, một số người khác lách qua
khỏi mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà
xây cất.
Họ
cất vây tứ phía ngôi đất Thánh và vòng vây cứ càng
ngày càng siết chặt lại, người chết không
còn lối nào để thoát ra được nữa
cả.
Khi
vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là
những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt
đầu diễn ra một cách đau thương.
Người
sống cũng biết đau lòng khi phải dẫm lên
những gò mả còn mới rành rành (nhiều mộ bia,
thánh giá, đề năm chôn là 1951) nhưng họ, ác thay,
lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất
nhà trên những nấm đất ấy, xin người
chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi.
Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì!
Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì!
Cuộc
xâm lăng lặng lẽ để tranh sống với
người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ.
Vùng
đất ấy ngày xưa tuy cũng thấp mà vẫn khô
ráo, nhờ con rạch Bần tháo nước ra sông Ông Lãnh.
Nhưng từ khi đô thành cho đắp đại
lộ Trần Hưng Đạo, cách đây mấy
mươi năm, thì ngọn rạch Bần bị
lấp, và nước mưa trên nầy bị bỏ tù
lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy
đất trũng mà!
Đất
thánh không phải ở giữa rún đất nên không
đọng nước. Nhưng vòng vây tai hại kia
lại biến thành con đê ngăn nước đất
thánh đổ xuống chỗ trũng hơn.
Thành
thử phần nhiều ngôi mộ đã biến thành cù lao,
có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần
đảo, không còn làm sao ra đó được nữa.
Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng
khôn tả. Đáy ao biến thành bùn non, đi thì lún
đến ống quyển.
Lau,
sậy, đế tha hồ mà mọc như ở bưng
miền xa.
Giữa
đất thánh còn sót lại một ngôi mộ cổ,
kiến trúc theo bên lương mà có lẽ nhà thờ không
nỡ phá đi lúc lập ra đất thánh cho giáo dân
nầy.
Ngôi
mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa địa,
xây bằng vôi và ô-dước, xanh đặc những rêu
phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối như
một lâu đài, đầy dẫy ngăn nắp với
nào là đường vào lối ra quanh co và hóc hiểm.
Hôm
ấy những người của vòng vây đều
ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi
mộ cổ ấy.
Nhà
dựng đâu từ sớm mai đến trưa là xong
cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau làm thế
nào mà chủ nếp nhà ấy lội sình để ra ngoài
đó được. Đi tay không đã không
được rồi, mà làm sao hắn ta lại mang cả
gỗ, tre và lá ra đó để cất nhà?
Hỏi
nhau không ai đáp được, mà cũng chẳng mong
phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ
đành thôi. Thét rồi mắt họ quen đi, nếp nhà
ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ
nhận cho nó ở đó mà không bàn tới bàn lui gì nữa
cả.
*
* *
Sáu
Sửu ngày trước có ở xóm Phát Diệm. Năm
ấy có người treo cổ trong nhà mồ ở bìa
đất thánh. Anh đã vào đó với nhiều kẻ
hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên
được dịp biết rõ nghĩa địa.
Hôm
tháng rồi anh bị truy nã ráo riết nên cố tìm một
chỗ ẩn nấp thật kín. Nhớ lại xóm cũ
với cái nghĩa địa kia, anh về qua đó và
rất hài lòng mà gặp hòn đảo nầy.
Không
một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội
sình nhứt là dầm chơn trong một thứ
nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo
Lỗ Bình Sơn của anh.
Nếu
có cuộc bố ráp đại qui mô như hồi còn Tây thì
bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú
bậy vài tiếng như hú đò bên kia sông, rồi đò
không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng chưa
chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá
hiền, một tên ăn mày nào đó chớ gì.
*
* *
Từ
vòng vây ở ngoài, leo lét vài ngọn đèn dầu của những
kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa
ngoài kia, ánh sáng đô thành làm nổi bật lên, đen thui,
những ngôi nhà lầu, những ngọn cây cao. Các thứ nầy
giống hệt những hình bằng giấy đen,
người ta cắt rồi dán lên nền trời.
Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu ánh sáng.
Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu ánh sáng.
Anh
Sáu quên, một thứ khác, cũng giống như lau
sậy, mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế
đêm nay trời có trăng, anh ngồi ngó mông ra đám
rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết
hồn trước sự hiện ra của một chú
chồn to bằng con chó ta.
Chồn
khua lau sậy sột soạt, rồi chui ra khỏi mộ,
ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây chưa có.
Suốt ngày hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không
biết ngoài này loài người làm gì mà lục đục
mãi.
Đôi
mắt nó lóng lánh dưới ánh trăng, ngạc nhiên giây
lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người
rồi nên không có vẻ gì sợ sệt cả.
Nhưng
anh Sáu lại sợ. Anh có đọc truyện Phong Thần
nói chuyện mả Huỳnh Đế có một bầy
hồ ly mà một con đã nổi danh trong lịch sử,
là cái con đã biến thành nàng Tô Đắc Kỷ;
đến nay thấy chồn trong mộ chui ra, anh liên
tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn
người lên.
Nhưng
anh trấn tĩnh lại được. Trong dân chúng
người ta tin chắc như đinh đóng cột
rằng tóc người chết hóa thành con lươn,
rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn mà anh
thấy, có lẽ chỉ là thối thân của tóc
người nằm dưới nhà mồ, chớ không
phải yêu quái gì đâu.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
- A ha, đồng đạo
đây mà! Anh Sáu cười mà nói thầm như vậy
rồi cảm tình ngay với con thú nầy.
Cái đạo
mà anh nói đó là đạo ... chích; trước kia,
trước khi lường gạt và cướp giựt,
anh cũng đã đi ăn cắp gà như chú chồn
nầy vậy.
Ngày nay anh thôi
ăn cắp, nhưng lại biến thành con cáo già chuyên môn
gạt gẫm thiên hạ.
- Mầy cáo thì tao đây cũng
cáo, vậy thì là bồ rồi.
Từ đó,
hai con cáo chung đụng với nhau mà không xích mích bao
giờ cả.
*
* *
Nghe
động dưới sàn, anh Sáu mỉm cười
lẩm bẩm:
- Đồng nghiệp xuất quân
đó đa!
Anh Sáu nhờ
cậy con chồn nầy lắm. Có nó ở dưới ấy
thì không còn lo rắn rít nữa. Anh mong có dịp trả
ơn nó, nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh
ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm lao động vây quanh
nghĩa địa, người ta nuôi gà vịt cả
bầy, nó ăn đến già cũng chưa hết.
Bỗng anh Sáu
nghe có tiếng chó sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to
lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó
bẹc-giê.
Rồi
lại nghe nước khua lũm chũm, với tiếng
chó càng lúc càng đến gần anh. Anh Sáu bước ra dòm
thì thấy bạn của anh đang chạy bán sống bán
chết trước một con chó to thấy mà bắt
ớn.
Anh Sáu thò tay
vào trong rút cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để
chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ
như chớp, anh chìa mũi chĩa đón đầu chó
cho chồn đủ ngày giờ chui vào mả.
Chó bẹc-giê
chạy quá đà, bị mũi chĩa đâm vào mõm đau
điếng, rống lên vài tiếng rồi trở
bước, vừa đi vừa day lại, sủa om
như chửi thề.
Anh Sáu
cười ha hả rồi cúi xuống sàn mà nói:
- Đêm nay tổ trác rồi đó
phải không em! Anh đây cũng bị rượt
thường lắm, nhưng đều thoát khỏi
cả. Bây giờ thì đố ai mà dám theo anh vào chốn
nầy. Chỗ ở tụi mình kín số dách.
*
* *
Sáng hôm ấy,
anh Sáu đi uống cà-phê, về tới nhà thì ngạc nhiên
hết sức. Trên một ngôi mộ cận mộ anh,
một chòi lá đã dựng lên rồi. Ngộ quá, nhà
cửa sao mà mọc mau lẹ như nấm mối.
Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một
tờ nhựt báo là một túp lều cũng vừa
dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì
chậm sao được!
Anh Sáu ngạc
nhiên mà thấy có một người thứ nhì lại
biết con đường bí mật đưa vào đó!
Anh lại tức vì túp lều ấy chặn ngay
đầu đường bí mật của anh.
Số là anh
Sáu biết lợi dụng mấy ngôi mộ chung quanh nên
mới vào đây được. Anh phải đi quanh co
nhiều nơi, nhảy từ ngôi mộ nầy qua ngôi
mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông,
nhưng ra khỏi nghĩa địa lại ra
hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng
rất lớn và rất cong queo.
Túp lều
tranh ấy cất ngay trên ngôi mộ anh dùng làm đầu
cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm
sao mà về nhà được, nếu hắn không cho anh
nhảy ngang qua nhà hắn?
Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho.
Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho.
Anh Sáu vỗ
đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống
phiến đá mộ bia đặt nằm theo lối Châu
Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau:
Ci-git:
Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở
décédé en sa 78è année
Priez pour lui[2]
Phiến
đá lớn bằng bộ ván hai, và thằng cha chủ nhà
nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván
luôn, nên không thấy nó lót gì trên ấy cả mà lại
để lên đó nào là va-ly, dép ... à ... mà sao lại dép
đàn bà?
Túp lều che
có phân nửa tấm bia thôi; cửa lều là một
bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước
tới vén màn lên thì ô nầy lạ, chủ nhơn bà
(chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu
phụ tóc quăn.
Chủ
nhơn bà bình tĩnh chào anh Sáu bằng một mỉm
cười im lặng.
Có lẽ
chồng chị ta đi làm rồi chăng? Nhưng vẫn
lạ là chị không có vẻ lao động chút xíu nào
hết. Móng tay chị đỏ choét và nhọn hoắt,
nước da mặt của chị bị phấn ăn,
chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt
chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát
bội.
Y phục
của chị cũng không phải y phục của
những kẻ đầu tắt mặt tối: lai
quần gắn ren, áo cổ bà lai thêu rằn rịt xanh
đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột
bằng ruy-băng màu.
Chị
ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món
đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm
cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh:
- Có tiền mãi lộ không? Nếu
không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng
đồn ở đây rồi, ai bước qua phải
đóng thuế.
Anh Sáu thọc
tay vào túi quần tây cũ của anh đứng thẳng
lên coi oai vệ như một tướng cướp trong xi-nê-ma, cười gằn rồi
ngạo nghễ đáp:
- Hỡi cô nữ tướng mã
thượng giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì
đòi tiền mãi lộ ai được. Nữ
tướng có giỏi thì bước ra ngoài đánh với
ta vài mươi hiệp cho rõ tài cao thấp.
Nữ
tướng cười xòa vì nghe giọng điệu thì
biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt
nạt hắn không được nhưng bắt bồ
với hắn có thể có lợi.
Anh Sáu xem qua
thì biết nữ tướng thuộc vào hạng
người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là
một kẻ trốn chui như anh, như con cáo
dưới giường anh. Cả ba đều là
chồn, nhưng con chồn cái nầy đã tu luyện
nhiều năm nên mang được hình người.
Đây là một thứ hồ ly không hớp hồn nho
sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao
động thôi.
Đầu anh
Sáu đụng nóc chòi, anh khó chịu quá nên ngồi
xuống:
- Ở đây không sợ mang
tội à? Anh hỏi đùa.
- Chớ còn anh?
- Tôi thì khác. Ngôi mả
của tôi cũ lắm rồi. Đó là một cái nhà
của một người chết đã đi đầu
thai kiếp khác rồi.
Con chồn cái
bỗng bỏ cái cười, buồn nét mặt lại
rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước
nghĩa địa.
Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu.
Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu.
- Anh thấy không? - Chị ta nói -
Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm
tội như vầy.
Anh Sáu thở
dài rồi không thèm chào hỏi gì cả vỗ đùi
nhảy bay qua nhà anh.
Từ đó
bộ ba chịu đựng nhau để sống chung
nhau.
Họ khác nhau
ý tứ, phong tục, thói quen, lối sống, nhưng
cả ba con cáo đều có một nỗi băn khoăn
chung là cả ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con ...
cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công An, còn con
hồ ly cáo cái thì sợ lính kiểm tục.
Trong cảnh
khổ giống nhau, tuy họ không tương đắc
với nhau được và vẫn phải tương
thân để bảo vệ nhau, khi cần. Mà nhứt là
để an ủi lẫn nhau.
Anh Sáu không
thích đờn bà lắm. Hay nói cho đúng ra, anh đã chán
chê đờn bà, nhứt là chán những hạng đờn
bà như con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên
nầy.
Nhưng mà
những đêm mưa dầm buồn quá, nằm giữa
cánh đồng ma mà được có người
để trò chuyện với nó thì ấm biết bao!
Những
đêm mưa như vậy, con hồ ly không đi kiếm
ăn được, mà cũng không đủ sức
mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì hòn đảo
của anh ở xa mãi ngoài giữa dòng nước, nên
hồ ly ta thắp lên một ngọn nến rồi
ngồi bó gối mà ca trật lất bản nhạc
„Đêm đông“.
„Đêm đông, ca nhi đối
gương ôm sầu riêng bóng“.
Gió đâm
sầm vào tiểu giáo đường đằng
trước kia, tung hoành giữa gian phòng trống mênh mông
rồi vừa hú vừa chui ra khỏi các cửa sổ nghe
bắt lạnh mình.
Mấy cây thùy
liễu hiếm hoi đã kháng cự được với
lau sậy để sống sót, đứng cúi đầu
khóc sướt mướt dưới trận mưa
dầm, trong ánh trăng mờ.
Mộ hàng hàng
như bầy cừu nằm nghỉ, gặm cỏ héo hon
và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất
mồ côi [3].
Đây là
chốn mà mộng đời bị cắt đứt nửa
chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên thu, mà người
sống cũng khó mong trở về với xã hội loài
người.
Anh Sáu nhảy
bay qua nhà hồ ly, như một tay kiếm khách phi dạ
hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy
mới cùng nhau tâm sự.
Không phải
kể chuyện cho khách nghe, hồ ly khỏi phải thi
vị hóa buổi thiếu thời của mình, không cần
lòe ai, con cáo già cũng khỏi anh hùng hóa bước giang
hồ của hắn. Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau
thấy. Bao nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời
họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa,
họ phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó
chịu.
Trời
mưa cuối mùa cứ dai dẳng từ ngày nầy qua
ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh mì
chả lụa trừ cơm. Mãi rồi nó cũng không còn
tiền để mua xôi nữa. Đất Sài Gòn, những
ngày cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng
sợ lạnh, không hề dám ló ra ngoài. Nó có ló ra, con hồ
ly mới ăn nem nướng được, còn nó mà trùm
chăn thì chồn cái cũng đành trùm mền mà nhịn
đói.
Anh Sáu cũng
chẳng thấy đi uống cà-phê sáng cho ấm bụng.
Cũng chẳng thấy khói thuốc bay ra khỏi mái
lều của anh như mọi ngày, và lâu lâu cũng không còn
nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu xèo
một cái.
Cả hai, vì
tự ái hão, đều giả đau để nằm nhà.
Anh Sáu yên thân hơn, còn dám ngồi dậy lết ra lết
vô. Còn con hồ ly thì sợ anh Sáu đi ngang qua đó biết
mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ
sáng đến chiều.
Khó chịu
quá, ngộp quá, mà anh Sáu không đi ngang qua lần nào
để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có
tức hay không chớ?
Hết mưa
rồi nắng. Anh Sáu ra đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh
lấy chơn lật chiếu ra thì thấy hồ ly
nằm xụi lơ. Nàng đau ốm thật đó,
đau một chứng bịnh cổ điển của
loài người, là bịnh ... đói.
Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
Thiên hạ
cứ mỗi ngày một khôn ra, cho nên, mặc dầu là cáo
già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa.
Anh buồn hiu
trở lại đào viên mà ba người bạn đã
mặc lặng kết nghĩa với nhau mấy tháng
trước.
- Chị đỡ bớt hay
chưa? Anh hỏi bậy cho có chuyện.
- Có uống mẹ gì
đâu mà đỡ bớt.
- Chị nghe trong mình làm
sao?
- Không biết. Nhưng
nếu ăn được một chén cháo thì khỏe.
Anh
Sáu hiểu ngay. Anh lại thở ra, ngồi bó gối bên
cạnh một người mà anh sẽ chịu
đồng cảnh vài ngày nữa đây. Sở dĩ anh
còn đi đứng được là nhờ anh mạnh
sức, lây lất nổi thêm vài ngày.
Chiều xuống sớm và mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba.
Chiều xuống sớm và mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba.
- Hừ, nó coi vậy mà no đó.
Bỗng
một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa mừng thì lại nghe
như ai xát ớt trong ruột anh.
Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ.
Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ.
Anh Sáu
đứng lên nhảy bay qua nhà anh, rồi ngồi nhìn
mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao
tù.
Một con nhái
hay con gì không rõ, nhảy xuống nước lội róc rách
đi về đâu không biết. Gió hú trong tiểu giáo
đường, gió than vãn ở các nhà mồ. Xa xa tiếng
động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng
cuộc sống ở bãi tha ma nầy thầm lặng quá!
Anh Sáu rút cây
chĩa ba, lết ra tới trước mả mà ngồi.
Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng
nước, mắt lom lom rình.
Bỗng có
tiếng sột soạt do con chồn khua lau sậy, nay
đã chết khô rồi. Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh
đập thình thình trong lồng ngực anh. Lạ! Anh
đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không nghe
mảy may sợ hãi. Cớ sao đêm nay ...
Kìa một
cục đen đen thò ra khỏi sàn ván. Anh Sáu cầm
chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi
chĩa đâm chúi xuống trúng ngay cổ con chồn.
Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ,
rồi thôi. Trong bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng
vang lặp lại tiếng kêu thương của con
vật vừa bị bạn phản bội nầy.
*
* *
Dân lưu manh
vẫn thế. Họ cũng biết xúc cảm, nhưng
chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu
con chồn vài giọt nước mắt rồi thịt nó
liền mà không nghe nhờm răng.
Thế là
đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn
no.
Họ chỉ
ân hận một vài giây thôi, vì dầu sao, người
bạn xấu số ấy cũng chỉ là một con
chồn. Ai dư nước mắt mà khóc thú vật cho lâu!
Trời
cứ mưa, mưa như cầm chĩnh mà đổ,
mưa như một oanh tạc cơ định về
căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót
lại trên tàu, mưa cho hết ráo nước để
rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa
đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho
đến xương kẻ dưới mồ chắc
cũng lạnh thấu tủy khô.
Ăn
được bữa cháo chồn, hồ ly nghe khỏe
như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị ra đi,
căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ có tiền,
một món tiền khá to, đâu như năm trăm, do
một anh tình nhơn hứa biếu và hẹn hôm ấy trao
cho vì hôm trước là ngày lương. Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy
hồ ly mà hôn một cái. Nhưng hồ ly dơ thấy mà
bắt nôn, nên anh thôi.
Độ
lối chín giờ sáng, anh Sáu đang nằm ca sáu câu mùi
mẫn: „Cảnh vị nhân
sầu, xơ xác ngọn vi
lau, nước triều mênh mông chảy ...“, thì bỗng
nghe tiếng tu hít thổi hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh
nghĩa địa rồi giây lát sau hồ ly nhảy
như khỉ qua các nắm mồ, theo sau chị là hai
người đàn ông còn trẻ.
- Trời ơi, anh Sáu kêu, mình
đã dại, kể cho nó nghe duyên cớ trốn tránh
của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn ơi, hồn
mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi
sắp bị trừng phạt đây.
Anh Sáu bó tay
không chống cự. Anh nhìn hồ ly, không oán giận mà
chỉ tội nghiệp thôi. Hồ ly trốn cái nhìn
của anh, ngồi day mặt vô vách lá, đếm tiền!
*
* *
Đêm nay, gió
sao mà hú ghê rợn hơn đêm nào cả.
Hồ ly
giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho bên
ấy! Chị đánh diêm lên để thắp nến.
Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn nằm bên
đèn kể lại những bước phiêu lưu
của anh! Hơi thở của anh, chị còn nghe như
văng vẳng. Cái mặt xương của anh
đậm nét lên dưới ánh đèn, như là còn ẩn
hiện mơ hồ trên tấm mộ bia!
Trời
ơi! Kéo cuộc đời nhơ nhớp nầy biết
đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp
lại đê hèn, bước từ phản bội nầy
qua phản bội khác cho đến một khi kia, thì mình
chỉ còn phản bội được chính mình.
Hồ ly rùng
mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải
vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ
hãi con người đã vơi cạn hết chất
người.
Chị ôm
mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:
- Trời Phật ơi, Chúa ơi,
tha tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy
và ra khỏi vực đen
của đời tôi nữa !
©
Binhnguyenloc.com
[1] câu chuyện
xảy ra năm 1964
Truyện Ba Con Cáo đã
được dịch ra Anh Văn do nhà văn Lê Văn
Hoàn ở San Francisco dịch để dự thi Truyện
Ngắn Quốc Tế ở Manila và đã được
giải nhất.
[2] Nơi đây yên nghỉ: Ông
An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nỡ, thất lộc năm 78
tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông
No comments:
Post a Comment