Bình
Nguyên Lộc
Nếu
chị Nguyệt không đến nơi, thì chắc hai người
đã đánh nhau hay ít ra, họ cũng trao đổi nhau
những tiếng nặng, khó lòng lấy lại
được, rồi thì anh em sẽ tuyệt giao với
nhau.
Cái
anh Vinh ấy có một tật đánh chết không chừa,
là hay đùa những cái lố bịch của người
khác. Anh ta có tài nhận xét những tật nho nhỏ của
mọi người, có tài phóng to những điểm
kỳ cục ấy lên, nắn cho nó biến thành những
hình thù kỳ dị hơn, rồi lại có duyên thầm,
trình bày những điều buồn cười ấy một
cách ngây thơ như là vô tình mà nói đến, chớ không
cố ý trêu người nào, không cố ý chọc
cười ai. Chính cái ngây thơ ác hiểm ấy, cù
người ta bất ngờ quá, nên không ai nín cười
được.
Nhưng
hôm đó, chị Nguyệt đến đúng vào lúc mà anh Cần
bị làm nạn nhơn của anh Vinh, và không muốn
để chị nầy thấy bộ mặt nhăn
nhăn của mình, anh Cần vui tươi lên như là không
giận bạn vậy.
Chị
Nguyệt xem lại đồng hồ rồi hỏi:
- Sao, giờ nầy mấy anh
chưa về?
- Thì đợi chị
nãy giờ, đi sao được. Thôi ta đi nè!
Bình
đáp, rồi giục tất cả mọi người.
Cả
năm đồng đứng lên.
Ra
đến cửa ngõ, muốn làm lành lại với
Cần, Vinh hỏi:
- Thầy Mười Sáng là
người thế nào, anh Cần?
Như
chợt nghĩ ra điều gì, Cần không đáp, mà
chụp lấy vai Vinh, rồi nói:
- Ừ, cậu có giỏi thì làm cái
nầy. Tôi thách cậu đó. Cậu làm thế nào
mà đùa thầy Mười Sáng cho anh em cười
ngả nghiêng, ngả ngửa một bữa chơi.
Cậu làm được thì tôi phục lăn tài pha trò
của cậu. Thầy Mười Sáng là người
thế nào à? Cậu hỏi anh Bình thì rõ.
Nói xong,
Cần hóm hỉnh cười, bụng nghĩ: “Phen
nầy, thì cậu chết nhé! Làm thế nào mà đùa
được con người đứng đắn ấy!
Thế mới biết tài cậu chưa vững đâu nhé,
cậu bé ơi, đừng có làm phách”.
Bình, vốn là
một thanh niên rất thạo về tôn giáo, về các phong
trào thần học. Chính anh ta đã rủ anh em đến
nhà thầy Mười Sáng hôm nay.
Thầy
Mười Sáng! Cả bọn không ai biết rõ thầy ta,
trừ Bình. Để trả lời câu hỏi chưa thốt
ra, mà thế nào cũng phải có của Vinh, Bình kể:
- Thầy Mười Sáng,
trước kia, có theo học ở một trường trung
học công lập tại Sài gòn. Không rõ, vì lẽ gì,
thầy ta bị đuổi vào năm thứ ba. Trở
về tỉnh nầy nghỉ vài năm, thầy ta đi làm
khán hộ. Chính trong thời kỳ thầy làm khán hộ
ấy, mà tôi được quen biết thầy. Thầy
đọc sách nhiều lắm, biết rất nhiều việc
và rất băn khoăn về nhiều vấn đề.
Thầy thường gởi gắm với tôi: “Tôi không hoàn
toàn tin nơi khoa học được, vì khoa học
chưa giải quyết được những vấn
đề lớn, cho đến những bí mật vừa
vừa của thiên nhiên, mà nó còn chưa khám phá ra nổi. Lấy
ngay một thí dụ, trong nghề của tôi mà nói, cũng
đủ thấy khoa học còn bối rối lắm.
Bịnh truyền nhiễm, khoa học cho là do vi trùng gây ra. Vâng.
Nhưng còn “dịch” của các bệnh truyền nhiễm? Ừ,
con vi trùng nó truyền bịnh và lắm khi gây ra dịch. Nhưng
trước khi có dịch, nó trốn ở đâu mà không tác
hại? Mà vì sao, tác hại trong một thời gian, nó
lại thôi? Ngày xưa, khi loài người chưa biết
trừ dịch, dịch vẫn tự nhiên lui như
thường, sau vài tháng hoành hành.
Thầy
Mười làm khán hộ được ít năm rồi
thôi, thí phát đi tu. Nghe nói là thầy ẩn tu ở núi nào
đó đâu được ba năm, rồi hạ san,
xuống Sài gòn, xin giấy thông hành đi ấn Độ. “Đi
nghiên cứu đạo Phật tận gốc”, thầy nói
thế với những người quen biết.
Cái năm
ấy, thầy được hăm bảy buổi, và
năm nay về là năm lăm đúng.
- Thầy nghiên cứu
được gì?
- Số là thầy ta
dốt về đạo Phật, không biết nguồn gốc
đạo ở đâu, nên qua đến nơi rồi nghe
người xúi biểu, thầy ta lên Tây Tạng.
- Tây Tạng không
phải là nhao rún của đạo Phật à?
- Đâu có phải. Tây
Tạng chỉ là một tôn phái của đạo Phật
thôi.
- Nhưng biết
đâu, tôn phái ấy không quan niệm đúng hơn bọn
chánh thống.
- Đúng thế! Thành
ra, đi lạc đường, mà thầy ta vẫn
học được nhiêu điều hay. Tôi rủ các anh
lại thăm thầy ta hôm nay là để xem thầy
biểu diễn phép lạ.
*
* *
Thầy
Mười Sáng sống biệt tịch trong một cái am
nhỏ ở khu Bà Lụa, một ngoại ô tỉnh lỵ
của tỉnh Bình Dương.
Am
cất trên đồi, giữa một vườn cây
cổ thụ sầm uất, trông xuống sông, nước
xanh lơ, khiến khách viếng am không khỏi nghĩ
đến những vân am của đạo sĩ trong
truyện Tàu nào.
Thầy
Mười Sáng gầy khô đét như một ông lão
bảy mươi. Tuy nhiên thầy ta vẫn nhanh nhẹn và
có đôi mắt sáng quắc.
Chủ
am tiếp khách rất niềm nở, chú ý đến từng
người, cả đến cái cậu Vinh liếng thoắng
làm huyên náo am tiên kia, và làm bận rộn con người trầm
lặng đã học đạo từ Tây Tạng huyền
bí về.
Sau
những câu khách sáo xã giao, bọn trẻ bàn về khoa học
và tôn giáo. Thầy Mười nói:
- Khoa học sai be bét hết và còn
dốt lắm. Tôi đã thấy tận mắt những
thầy Fa-Kia bên Ấn Độ, tự chôn sống hàng tháng
mà không chết, tôi thấy họ đâm dao vào thịt mà
không làm chảy máu; riêng ở Tây Tạng là nơi tu hành,
những thầy tu tay mơ cũng có thể ngồi
trần truồng trên tuyết hàng tuần, mà không bị
cảm lạnh bao giờ. Thật là trái với những
luật mà khoa học đã nêu ra.
- Thưa thầy,
họ có phép tiên chắc?
- Đúng, họ
luyện phép và chính tôi, cũng đã học được
vài môn.
Đức
nói:
- Hay đó cũng là khoa học;
nhưng khác với khoa học của ta. Ta thử
đặt tên khoa học của ta là khoa học A..., còn
của họ là khoa học B. Cả hai đều đi tìm
sự thật, mà đi hai nẻo khác nhau, ngày sau A và B
sẽ gặp nhau chăng?
- Tôi không đáp
được. Điều tôi biết chắc là họ và
tôi đã làm được những điều mà cái khoa
học A của cậu cho là không được. Nể
lời chú Bình, tôi biểu diễn phép tị hỏa cho các
cậu xem.
Bây
giờ, bọn khách trẻ mới hiểu được
sự có mặt của cả một cái lò rèn giữa am
thầy Mười.
Thầy
Mười Sáng nhúm lửa ở đống than, còn Bình thì
bước lên ghế cao, cầm hai cây thụt ở
ống bễ mà thụt.
Hơi
trong hai ống bễ xình xịch bay ra, thổi văng lên
những mảnh than nát. Mấy đóm lửa mới nhúm,
nở to lần lần, ăn lấn vào màu đen huyền
của than. Màu lửa, ban đầu, xanh xanh, càng lớn
khối, càng ngã sang màu hỏa hoàng và khi những
lưỡi lửa chen than mà mọc lên, thì than đã
nhuốm màu bạch chảng.
Bình
thụt không ngớt tay, lửa cháy đỏ rực khuôn
bếp.
Thầy
Mười Sáng mặc áo đạo sĩ màu lam có viền
trắng ở các rìa. Thầy ta săn tay áo lên một cách
trịnh trọng, đoạn khom lưng, cúi mình trên
bếp lửa, thọc tay vào đống than cháy đỏ,
chọn lấy một hòn than to nhứt và đang cháy
tốt nhứt. Thầy ta làm công việc ấy dễ
ợt như một cậu bé chọn kẹo. Thầy
cầm hòn than đỏ giữa hai ngón tay, rồi
đứng thẳng dậy, đặt nó vào giữa lòng
bàn tay bên kia.
Bốn
thanh niên và một thiếu nữ trố mất nhìn. Họ
hồi hộp đợi thầy Mười bị
phỏng tay, phải vứt hòn than đỏ, đợi
chờ cái ấy, mà cứ lo sợ nó xảy ra, rồi
phải thất vọng. Có thế nào như thế
được chăng? Họ tự hỏi như
vậy, rồi tự bảo rằng, thì ra phép tiên, phép
mầu là điều có thật chớ không ngoa.
Hòn
than trên tay của thầy Mười đã sậm màu
đen, và một lớp tro trắng mỏng đã bắt
đầu bao bọc lấy nó. Thầy đạo sĩ nói:
“Nguội quá rồi!”
Rồi
vứt hòn than lên đống lửa.
Bình
mê xem biểu diễn, nên quên thụt lửa, khiến
thầy đạo sĩ phải nhắc:
- Chú thụt tiếp đi chớ!
Hai
ống bễ lại bắt đầu thở khì khì và
đống than bắt dầu đỏ rực trở
lại.
Thầy
Mười Sang bước vào đống than đang cháy,
đi tới vài bước, đoạn đứng yên
một nơi.
Những
lưỡi lửa cứ chờn vờn muốn táp lai
quần của thầy Mười, vốn đã vén lên
rồi, khiến thầy lại phải vén ống lên
thật cao.
Chị
Nguyệt há miệng nhìn, mắt mở tròn xoe. Trong không khí,
phảng phất một mùi huyền bí kỳ lạ,
thật thật, hư hư, và thầy đạo sĩ
kia, có vẻ một ông Tiên từ thời Xuân Thu hiện
về. Năm khán giả trẻ tuổi nghe như mình
đang lạc vào cõi tiên hay vào động quỉ. Thật
là không thể tưởng tượng được.
Đứng
trên than hồng được ước chừng năm
phút, thầy Mười bước xuống, mỉm
cười đắc thắng.
Bình
ngừng thụt, thở ra một hơi dài và nói:
- Mỏi rụng hai tay!
Chị
Nguyệt kính cẩn nhìn thầy Mười Sáng giây lâu,
rồi hỏi:
- Thưa thầy thầy ăn
ở dễ thương cách nào mà mấy ông thầy tu trên
ấy truyền cho thầy phép lạ nầy?
- Những phép nầy
không thể truyền mà được như bùa ngải.
Phải bền công luyện tập mới đắc.
- Luyện tập à,
thưa thầy? Không truyền được, mà phải luyện
tập, là không phải phép huyền bí nữa rồi, mà là
khoa học đó, khoa học B như tôi đã nói.
Đó là
lời của Đức.
Thầy
Mười Sáng suy nghĩ giây lát, rồi đáp:
- Có thể. Nhưng dầu sao khoa học
của cậu cũng còn non lắm đối với khoa
học huyền bí nầy.
- Đúng như vậy !
- Chị Nguyệt phê.
Bỗng
cậu Vinh lắm lời kia, nãy giờ cứ làm thinh,
hỏi lên đột ngột:
- Dạ, thưa thầy...
Anh ta mới
mở lời, mà bao nhiêu con mắt đều quay nhìn anh ta.
Thấy gương mặt ngây thơ một cách hóm
hỉnh của Vinh, thản nhiên sắp hỏi một câu
gì đó, họ đoán sẽ được cười.
Cần lo
lắng kẻ nghịch của anh, lần nầy lại
thắng nữa. Còn Bình thì hoảng hốt lên, sợ
những câu pha trò của Vinh sẽ chọc giận
người đáng kính là thầy Mười. Nhưng
đã trễ quá rồi, không còn ngăn thằng mắc
dịch Vinh kịp nữa.
Vinh ngây thơ
tiếp hỏi:
- Dạ thưa thầy, không hay
cái phép mầu nầy dùng để làm gì vậy a thầy?
Thầy
Mười có vẻ bực mình lắm! Thầy suy nghĩ
giây lâu, rồi đáp:
- Thí dụ như có đám cháy, tôi
đã không hề gì, lại xông vào lửa để cứu
những người còn kẹt trong nhà.
- Thưa thầy, thầy
mất đến hăm tám năm trời để làm được
một công việc mà bất kỳ anh lính cứu hỏa
nào cũng làm được, mà chỉ tốn có hai phút
đồng hồ thôi. Trong hăm tám năm trời ấy,
cái khoa học non nớt của chúng tôi đã tìm
được bao nhiêu là thứ, mà những thứ ấy,
truyền lại cho ai cũng được cả, miễn
họ chịu bỏ ra chỉ vài năm thôi, để
học tập.
Lần
đầu tiên trong đời anh ta, con người nổi
danh có tài hỏi vặn pha trò để chọc
cười ấy, đã thất bại, vì không ai
cười cả.
Thầy
Mười Sáng trố mất nhìn người khách có
vẻ mặt ngây ngô, đần độn kia, nổi
giận trong vài giây, rồi kinh sợ trong mấy phút.
Đoạn
thầy ta ngồi phệch xuống đất, ôm
đầu mà thở dài. Cả sáu người trong nhà
đều im lặng, mỗi người có một ý
nghĩ riêng về quan niệm của Vinh.
Lâu lắm,
người ta mới nghe thầy Mười Sáng lẩm
bẩm:
- Hăm tám năm! Hăm tám năm!
Trời ơi, sự thật đến bạc đầu
tôi tìm cũng chưa ra, mà cái phép mầu kia, luyện
được sau một phần tư thế kỷ cố
gắng, bỗng thấy là hoài công, phí sức lắm.
Bình
bước tới, quỳ xuống trước mặt
người đạo sĩ thất vọng để an
ủi:
- Thưa thầy, không là hoàn toàn
hoài công đâu, vì ít ra, điều ấy cũng giúp
người khác thấy rõ là nẻo của khoa học B không
phải là nẻo không nên theo.
- Không ! Sụp
đổ cả rồi, các cậu ơi! Cả một
đời tôi, cả một đời bao nhiêu
người khác, chúng tôi đã dùng nó làm gì? Chẳng qua là
phung phí thì giờ và tâm trí như những kẻ trác táng kia!
No comments:
Post a Comment