Bình - nguyên Lộc
Từ vùng Hố Nai, rời
con đường thiên lý, mải miết đi về
hướng Tây, du khách phải qua rừng rậm, tuy
chưa phải là rừng già, chớ cây cũng to và có thú dữ . Rừng nầy có
lẽ hiện nay đồng bào di cư đã phá
để làm củi.
Qua khỏi rừng thì một
cánh đồng minh mông trải ra tới tận chơn
trời, và nơi đó, cánh đồng được
viền bằng một khu rừng chồi; sau rừng
chồi là làng mạc rồi đến con sông Ðồng Nai.
Cánh đồng không mông
quạnh nầy gồm một phần ruộng rừng
của dân làng, ngoài xa kia, và phần
lớn là đồng đế và lau lách. (Có
một khu tên là Ðồng lách).
Ruộng
rừng vì đất khô quá, và vì nai phá lúa, canh gác không
xuể nên thường bị bỏ hoang, thành ra cả cánh
đồng là một biển lau sậy bằng phẳng và
buồn hiu.
Giữa cánh đồng,
lạ lùng thay, một trái núi nổi lên, giống một hòn
đảo nhỏ giữa biển cả và nhứt là
giống một cậu bé đi lạc, ngơ ngác nhìn quanh.
Nói “cậu bé” vì
đó là một quả núi tí hon và chỉ cao độ
bốn mươi thước thôi. Còn nói “đi lạc” là vì
những hòn núi rời, tách ra khỏi khối Trường
Sơn đi lang thang về phía Nam, chỉ tới mạn
bắc tỉnh Biên Hòa là dừng chơn lại. Cái anh chàng
đi xa hơn hết là núi Chứa Chan đứng sừng
sững đằng xa kia, xanh mờ trên
nền trời lam lợt. Nhưng anh ta
cũng khá dềnh dàng để xứng đáng làm một
phần tử trong bầy Trường Sơn chớ có đâu
mà lùn xịt và đi xa quá như chú núi nhỏ nầy.
Tuy nhỏ mà
cũng có tên họ đàng hoàng, mặc dầu không
được sách địa dư nào nói đến
cả. Ðó là núi Bà Mọi.
Mắt
du khách đang khổ sở nhìn cánh đồng khô cỏ
cháy thì rất sung sướng được nghỉ
ngơi trên cái xanh mát của hòn núi Bà Mọi nầy, vì cây
cối mọc um sùm trên đó.
Một con đường mòn
tương đối dễ lên, đưa tới chót núi
và khi ra khỏi con đường tối om ấy, nơi
cây cối giao nhành khiến nó giống một hang núi, thì
người ta ngạc nhiên thấy trước mặt
đứng lên một ngôi chùa cổ rêu phong.
Ấy, người Á Ðông ta
tin rằng ở rừng núi, chùa chiền mới linh, nên
mặc dầu tín đồ ở tận mãi ngoài sông cách
đó bảy tám cây số, các sư cũng tìm cách mang vôi
gạch đến đây để cất linh tự.
Ðỉnh núi
bằng và sói sọi không phải vì người ta
đốn cây để cất chùa mà vì những tảng
đá xanh nổi ngổn ngang trên đó không cho thảo
mộc sống được.
Trước sân
chùa, sáu phiến đá lớn hơn hết họp lại
thành một búp sen đá trông khá giống hoa sen và khá
đẹp, và trong lòng búp sen ấy nhú lên một trụ
đá tròn, to bằng bắp chơn. Hình như ai
đó đã đẽo đá, cặm vào đó để
ếm cái gì hoặc để giả làm nhị sen.
Sư trưởng là một
người đàn ông còn trẻ, đầu không cạo
trọc, ăn nói có vẻ có học và
không quê một chút nào. Chúng tôi đi thăm
chùa ấy, thuộc làng Tân Ðịnh năm 1945, giữa mùa
nực. Sự ân cần đón khách
của sư trưởng đối với sự keo
kiệt về nước uống của ông ta khiến
chúng tôi ngạc nhiên.
Ðoán biết nỗi khó
chịu của chúng tôi, sư trưởng phân trần:
- Các anh tính, từ ngoài sông vào đây
phải đi bảy cây số đường rừng, nên
một đôi nước lên được chùa nầy là
trở thành quí như nước cam lồ của Phật.
Ðoạn,
chỉ vào nhị đá của búp sen, sư trưởng
nói:
- Búp sen nầy ấp ủ một
dòng nước thần nhưng từ ba trăm năm nay
nó đã tắt chảy, thành ra chúng tôi phải nhịn khát
dữ lắm.
- Một dòng nước, thưa nhà
sư? Tại sao trên núi cao lại có nước, còn ở
dưới đồng bằng...
-
Ấy, như vậy là sự
thường. Có lẽ mạch nước đang âm thầm
chảy dưới đất thì tới đây đất
nhô lên thình lình, nên nó bị đưa lên cao. Khi đất nhô, đất bị nứt ra
nơi trên đầu, cái mạch như một huyết
quản bị bể nơi ấy, xoi lỗ mội mà ra.
Chúng tôi ngạc
nhiên hết sức vì sự giải thích của nhà sư
rừng nhắc chúng tôi nhớ lại những bài học
về địa chất học ở nhà trường.
Chúng tôi nhìn
kỹ nhà sư để tìm biết coi ông là người
trong giới nào bước vào làng Phật giữa rừng
nầy.
Nhà sư vẫn thản nhiên,
và như muốn đánh trống lảng, chỉ vào búp sen
mà thêm:
- Các anh thấy sáu cái máng xối
đây không? Quả thật thế, từ sau
khe đá giữa sáu phiến đá hợp thành búp sen, sáu
đường nước giống như sáu sợi dây
thòng xuống chơn núi. Dấu nước chảy
khuyết đất ngày xưa vẫn còn ràng ràng và
những hòn đá cuội giữa các mương bị
lột trần đất như nằm lăn
lóc đó mà chờ những giọt nước mát không bao
giờ chảy qua nữa.
Sáu
đường mương lố dạng một quãng
rồi mất hút trong cây cối xanh um, trừ cái
mương mà người ta dùng làm đường mòn lên
núi. Chính do con
đường nước cũ mà chúng tôi leo
đến đây mà không ngờ.
- Ðó là sáu con suối từ cái mội
nầy chảy xuống để tưới lên cho mát
đất bằng dưới kia.
- Nhưng ai cắc cớ bịt
mội bằng cục đá nầy?
Sư trưởng làm thinh,
kéo chúng tôi ra phía sau chùa, chỉ vào một cái miếu
đổ:
- Ðây là đền thờ Bà Mọi.
Chính bà ấy đã làm tắt suối đó.
Khi di cư vào Nam, cách đây
trên ba trăm năm, đồng bào ta không phải gặp
toàn người Thủy Chơn Lạp như phần
đông đã tưởng.
Ở miền Ðông Nam Việt,
ta chạm phải người Mọi mà bây giờ
người ta kêu là người Sơn Cước, mặc
dầu danh từ Mọi không có gì xấu hết và danh từ
Sơn Cước chỉ là danh từ tổng quát không phân
biệt đúng bộ lạc nào trong đám Sơn
Cước cả.
Ta phá rừng, và dân Mọi tìm
đủ cách cản trở. Họ không tiếc
đất với ta, vì đất còn minh mông, họ
cũng không xấu bụng với ta vì họ là những
người có căn bản tốt.
Nhưng họ
quyết giữ rừng, vì rừng với họ như
nước với cá.
Họ sống nhờ rừng vì rừng là cái
kho trữ các sinh vật nuôi họ. Họ
thương rừng vì rừng là khung cảnh quen thuộc
của họ.
Ðám người khai phá khu
rừng quanh hòn núi nhỏ ấy bị phá phách đủ
thứ: nào là mùa màng bị nhổ quăng đi, đi
đường rừng bị phục kích bằng tên
thuốc v.v...
Người ta rình mò dò
dẫm mãi mới biết được kẻ phá hoại
là một mụ Mọi già tóc tai bồm
xồm, trông rất ghê sợ.
Biết thế
nhưng họ không làm gì được mụ ta vì
động một cái là mụ biến mất vào rừng
sâu.
Người
Việt ta chỉ còn một nước là lấn lần
vào rừng bằng cách đốn cây, mong rằng
đồng bằng sẽ đuổi mụ ta đi
nơi khác hoặc rồi mụ ta sẽ chết
trước khi họ phá hết rừng.
Rừng già bị gặm ngày
một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến ngày kia thì vòng vây đã siết chặt quanh hòn núi
như ở nhà quê người ta cạo trọc
đầu con trẻ, chừa lại chiếc bánh bèo.
Bấy giờ công tác phá
hoại của Bà Mọi tăng lên gấp bội và mang
một vẻ bối rối, tuyệt vọng. Người Việt ta chỉ cười hề
hề vì họ biết sức một cá nhơn không tài nào
phá hủy công việc của hàng ngàn người
được.
Nhưng một sáng kia họ ngạc nhiên hết sức mà
thấy sáu con suối chảy qua đất mới khai
khẩn hình như là cạn bớt đi.
Một người nói không ai
tin, nhưng rồi nhiều người quan sát xác nhận
điều đó nên cả đoàn người di cư
đều xúm nhau mà rình mực nước.
Nước
suối cạn lần thật, y như là đất khô hút
lần nó và mãi cho đến chiều hôm ấy thì sáu dòng
nước nhỏ cạn queo.
Sông cạn, núi
mòn, đó là những hiện tượng họ nghe nói trong
sách vở nhưng chưa hề thấy bao giờ. Những người trẻ
tuổi và đàn bà hốt hoảng lên, xem đó là một
thiên tai và tin rằng trời hại họ, hoặc
thần đất, thần rừng phạt tội xúc
phạm của họ nên mới cướp mất
nguồn sống của họ đi. Những người
tuổi tác sáng suốt hơn một chút nên thấy ngay
rằng Bà Mọi đã nhúng tay vào vụ
đó.
- Phải rồi, các người
trẻ tuổi nghe có lý nên đồng reo lên. Chính
đây là cái ngón cuối cùng của mụ ta đề phá
bọn mình.
Rồi họ rùng rùng rủ
nhau lên núi để bắt Bà Mọi, chớ không đùa
cợt công việc phá hoại vô hiệu quả của bà
ta như trước nữa.
Nhưng những ông lão
ngăn họ lại:
- Các anh dại dột quá. Nếu mụ ta ngăn suối chảy
được là mụ ta có pháp thuật chi đó, nên
mới yểm nước một cách hiệu nghiệm
như vậy. Liệu các anh có
đủ tài bắt một người có pháp thuật
chăng? Mà đừng nói chi là pháp thuật, nội
trước cái tài trốn chui trốn nhủi trong rừng
của mụ ta, các anh cũng đã bó tay
từ trước đến giờ rồi.
Bây giờ chỉ còn
một cách là đốt hòn núi nầy, mụ ta có tài thánh ra
cũng không được. Với
lại lá bùa, mụ ta giấu ở đâu mình cũng
chẳng biết. Ngọn lửa sẽ đốt
rụi tất cả, kể cả lá bùa bí mật kia nữa.
Cả đoàn
đồng hoan hô các ông lão, rồi họ vác rựa mà
đốn rạp khu rừng mỏng còn sót lại,
viền quanh trái núi.
Xong đâu đấy, họ nổi lửa
lên mà đốt đống cây ấy.
Giữa mùa
nắng, cây dầu cháy quanh làm mồi cho cả một
đám rừng ngã rạp, lửa cháy rần rần. Thú rừng
nhỏ như chồn, thỏ, mang, mển, thoát thân
chạy vọt ra ngoài đồng trống, nhưng Bà
Mọi thì mãi không thấy bóng hình.
Bà ta biến đi chăng? Cả
đoàn người Việt di cư nơi vùng đó đã
vây chặt quanh núi mà đón mụ ta, vây chặt đến
con thỏ cũng ra không lọt, thế mà không thấy
tăm dạng người đàn bà dị tướng: hai
tai đeo hai ống tre và cổ đeo
răng cọp kia.
Ðến chiều tối thì lửa đã cháy đến
chơn núi. Ngọn lửa bắt đầu leo dốc, ở xa trông thấy nó bò lần
lên với những lưỡi lửa vói liếm
đầu lá, rồi như níu vào ngọn cây mà rướn
mình lên.
Bóng đêm lần xuống là cả một góc trời
đỏ rực lên. Bóng dáng của đoàn
người Việt di cư nổi lên nền lửa
rừng đêm, trông cổ quái như người tiền
sử ăn lễ lửa vui vầy.
Lửa leo núi được vài giờ thì
người ta nghe tiếng hú dài ghê rợn trên đỉnh
núi nổi lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng
đồng bào sơn dã của mụ đến giải
thoát mụ ta. Nhưng mụ có lẽ là
người độc nhất của cái sóc nầy mà dân
cư tiêu rụi hết từ lâu vì bệnh hoạn, nên
tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có
lấy một tiếng vang nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối,
rồi lại nấc lên và rốt cuộc chết lần,
tắt hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời
đã bò lên tới đỉnh.
Hơi hú cuối cùng thê thảm quá khiến đoàn
người Việt se thắt lòng lại, quặn đau
một niềm bất nhẫn. Những ông
cụ già có học Nam sử đều rưng
rưng lệ nhớ lại những tiếng kêu
thương khác của người Hời vong quốc âm
thầm khóc điêu tàn của giống nòi.
- Tranh sống!
Trời ơi! Tranh sống ác liệt thay! Một
ông lão lầm bầm như vậy rồi nước
mắt chan hòa.
Hai ngày sau, khi than đã tắt hết, người ta mò
lên núi. Sáu dòng suối vẫn
tắt nghẹt khiến cho họ nghi là lá bùa bị đè
dưới một tảng đá. Họ
tìm quanh thì thấy giữa búp sen, cấm ngập ngay
mội nước, một cái nút bằng cây gồ.
Cây gồ là một thứ cây hễ thấm nước
là nở ra, người Việt ta ngày xưa chưa
biết chất cốt mìn, dùng để bắn đá núi. Họ khoét trong
đá núi một hàng lỗ sâu rồi trồng những nút
ấy xuống đó.
Họ tưới nước vài ngày là gồ
nở mạnh và đẩy tét hai một tảng đá
lớn. (Cách đây vài mươi năm,
dân làm đá ở Bửu Long, Biên Hòa, cũng còn dùng
phương pháp ấy).
Nút gồ nở
lớn quá, họ cạy mãi để giải thoát mội
nước mà không được.
Nước mội lại
chứa nhiều chất đá vôi nên ngày lại ngày rỉ
ra, tiết chất đá vôi, chất nầy khô cứng
lại và hóa thạch cái nút kia, nên càng
không lay chuyển nó được.
Dân phá rừng đành phải
cam chịu ruộng khô và để tưởng nhớ
một người đàn bà oanh liệt, đã bảo
vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng,
họ cất miếu thờ Bà Mọi trên núi và đặt
tên núi là núi Bà Mọi.
- Còn ngôi chùa nầy, sư
trưởng tiếp, thì chỉ mới dựng lên
độ sáu mươi năm nay thôi.
No comments:
Post a Comment