Bình
Nguyên Lộc
Bịnh
viện Bình Dân[1],
một buổi sáng. Giáo Sư H. đi đến
giường số 17, thì dừng lại. Sau lưng ông,
người ta dồn đống như tại một
ngả tư phố Sài gòn, xe dồn cục lúc đèn
đỏ cháy lên.
Họ
đứng sau lưng ông, đông, trên hai mươi
mạng: bốn anh nội trú, tám anh ngoại trú, mười
sinh viên thường và hai nữ y tá.
Bác
Sĩ H. là một Giáo Sư Y Khoa lỗi lạc, mà thủ
thuật đã được nhiều tạp chí Pháp và
Mỹ nói đến, nên, hễ ông đi thăm bịnh, là
bao nhiêu người thích tìm tòi, học hỏi đi theo đông
đủ sau lưng.
Khi
họ dồn lại một nơi, thì con bịnh không còn
biết ai là “bác sĩ thầy” nữa cả. Giáo Sư,
người thấp bé, ăn mặc rất khiêm tốn,
cái đầu trọc lóc, thật kém đẹp, kém oai
hơn sinh viên nhiều. Ông lại pha trò suốt ngày,
khiến người ta tưởng, đó là một thanh
niên vui tánh, mới vào học.
Giáo
Sư quay lại hỏi nội trú Thành, người gác nhà thương
đêm rồi:
- 17 mới vào à? Đâu, quan sát
đâu?
Nội
trú Thành lướt tới, tay cầm xấp tài liệu,
rồi nói như giảng bài, cho tất cả sinh viên
đều nghe:
- Người nầy bị
chứng ung thư phổi. Dấu hiệu chánh: đầu
móng tay bầm tím và co quắp lại. Những dấu
hiệu phụ: nghẹt thở gầy ốm nhanh chóng
trong mười lăm hôm…
Giáo
Sư vừa lắng tai nghe phúc trình của anh nội trú
giỏi nhứt nhà thương, vừa bước tới
kiểm soát lời anh ta.
Khi
Thành phúc trình xong, Giáo Sư hỏi:
- Phụ Giáo đâu?
Lúc
ấy, người Phụ Giáo ở ngoài, vừa
bước vào. Giáo Sư nói:
- Bác Sĩ à, cho chuẩn bị
để mổ ngay.
- Chuẩn bị
rồi, thưa Thầy.
Đường,
sinh viên thường, năm thứ nhì, chen tới hỏi:
- Thưa Thầy, liệu cứu hắn
được hay không?
Họ
trao đổi ý nghĩ với nhau bằng ngoại
ngữ, nhờ thế con bịnh không hiểu
được, nên khỏi sợ sệt.
- Rất có thể thành công. Giáo
Sư khiêm tốn đáp.
Đường
lại hỏi thêm:
- Thưa Thầy, bịnh sẽ
tái lại hay không ?
Giáo
Sư mỉm cười:
- Nếu nó không tái lại, hóa ra
loài người đã chữa ung thư được
rồi à? Không, vài năm sau hắn sẽ chết. Cố
gắng của khoa học là lùi phút chót của con bịnh
lại, lâu chừng nào hay chừng nấy.
*
* *
Giáo
Sư đã thành công. Không ai ngạc nhiên hết, vì ông ấy
mổ vững như thợ thiến gà.
Nhưng
mấy hôm sau, con bịnh bị nhiễu chứng.
Đầu tiên là chứng nghẹt phát quản phổi. Có
những giọt máu khô sau cuộc mổ mà con người
không làm sao tìm thấy được. Một giọt máu khô
ấy, theo vết thương mổ, chạy vào phát
quản, rồi bị dòng máu đẩy đi. Nhưng
một khi kia, gặp nơi phát quản hẹp quá thế
là nó chận ngõ đón truông, không cho tuần hoàn làm việc.
Lại
phải mổ. Mà trước khi mổ phải khó nhọc
tìm xem tên phiến loạn phá hoại sự lưu thông
ấy trốn chắc chắn nơi đâu.
Hệ
thống lưu thông của máu huyết vừa
được giải tỏa, thì con bịnh lại
bị nhiễm trùng độc.
Vì
mổ mãi, nên vi trùng có dịp xâm lăng cơ thể anh
ấy, như mở cửa thành cho quân địch vào
ấy mà! Một thành phố kiểm soát chặt chẽ bao
nhiêu cũng khó ngăn sự len lỏi của ẩn binh.
Miệng mổ và dụng cụ được khử
độc kỹ lưỡng bậc nào, cũng không chận
toàn thể vi trùng đột nhập.
Tất
cả nhà thương đều được huy
động để săn sóc con bịnh, tất cả
dụng cụ, thuốc men đều được
xử dụng để đối phó đến hàng chục
nhiễu chứng mà hắn vướng phải.
Ở
bịnh viện Bình Dân, trại nào cũng là trại do Y
Khoa Đại Học phụ trách để nghiên cứu
cả. Ngoài, người ta không biết, nghe nói học trò
đến học thì sợ lắm, ngại họ dùng các
con bịnh làm đám đất thí nghiệm. Sự
thật, thì Y Khoa Đại Học cẩn thận hơn
cả nhà thương thường, không hề thí nghiệm
càn như người ta ngỡ. Trái lại, sự săn
sóc thì châu đáo đến mức kiểu mẫu cho sinh
viên noi theo. Còn sinh viên, thì phần đông, tận tâm, cố
gắng để được hành nghề.
Thành
thử, con bịnh, nhứt là những con bịnh mấy chứng
nguy, được họ chiến đấu quyết
liệt với thần chết, để cướp hắn
lại. Bao nhiêu tự ái đều nhảy ra mặt
trận: tự ái của ông thầy quyết cho học trò
tín nhiệm, tự ái của sinh viên quyết chứng
tỏ mình hiểu biết và làm được. Ngoài ra,
lương tâm nhà nghề và tinh thần đồng
đội cũng tiếp chiến với bao nhiêu thứ
kia.
Sáng
sáng, xem biểu nhiệt độ, họ lặng thinh mà
thở dài, hoặc nhảy nhót tưng bừng, ôm nhau mà
cười, nói:
- Ta đã thắng!
Sự
thắng bại thật là bất phân. Vài hôm, bên tử
thần muốn làm chủ tình hình, hôm khác, bên đoàn Y Khoa
lấn nước.
Hai
đối thủ tranh nhau từng tấc đất, rình
rập nhau để chụp lấy sơ hở của
bên kia. Bên tử thần cứ lù lù tiến tới, trong những
bước chậm rãi, một cách hiểm ác, chậm rãi mà
chắc chắn, vì hắn tin, không con mồi nào thoát
khỏi hắn cả.
Bên
đoàn Y Khoa, hôm thì tấn công ồ ạt, hôm lại dùng chiến
thuật du kích, để khai trừ từng thằng
một, những binh tướng lẻ tẻ của
thần chết như là động kinh, vọp bẻ vân
vân...
Không
giờ phút nào mà cuộc chiến đấu không diễn ra
và kẻ chịu đựng nhứt trong bọn là các
nội trú. Đời Y Khoa không có gì khổ hạnh
bằng mấy năm nội trú. Trăm dâu đều đổ
lên đầu nội trú, đến nỗi mấy anh
ấy ăn, ngủ đều mặc áo choàng trắng
sẵn trong mình, thảo nào mà nhiều vị lương y
không khoe bằng Bác Sĩ, mà lại biên lên bảng hiệu:
Cựu Nội Trú, cho người ngoài khiếp phục
chơi. Nội cái việc thi đỗ vào nội trú cũng
bằng là vượt Vũ Môn cấp nhì vậy.
Ngày
thứ năm mươi sáu, sốt lui một cách
đột ngột.
Tử
thần, dường như thấy khó thắng, nên nửa
đêm rút đi êm thắm và trật tự.
Mười
một giờ đêm hôm đó, anh nội trú Ân đi soát
lại cái giường lần cuối cùng, để vào
buồng ngả lưng một lúc. Anh rờ lên trán anh 17,
thì nghe mát lạnh. Hoảng hốt và mừng rỡ, anh
chạy vào buồng đánh thức bạn đồng khoa
dậy:
- Giặc! giặc! tụi bây
ơi!
Bọn
kia dụi mắt hỏi:
- Bịnh vào à?
- Không, giặc lui rồi!
- Giặc nào?
- Giặc 17.
- Hắn chết rồi
à?
- Không, thủy hạ.
Cả bọn
đều nhảy xuống giường. Anh Tuân hét:
- Đi lấy Potion
de Todd mau lên!
Khi nhiệt
độ xuống thình lình như thế, con bịnh
cũng nguy, vì hắn có thể bị nhiễu chứng
khác, nên phải cho hắn uống Potion de Todd cho hắn
ấm lại.
Bọn sinh
viên chạy rần rần ngoài trại bịnh, vây lấy
con bịnh, mà tên đã bị quên mất, và được
họ gọi là 17. 17, cái tên ám ảnh, cái tên khủng
khiếp, làm cho họ mất ăn, mất ngủ gần hai
tháng trời nay.
Con bịnh
vừa tỉnh, ngơ ngác nhìn đám người lạ
mặt đang cúi xuống người hắn. Một anh
lạ mặt, nắm lấy tay hắn, để bắt
mạch tay.
Từ đó
đến sáng, họ lui tới phòng 17 không ngớt,
hỏi hắn đủ điều, thật khổ
sở cho hắn.
*
* *
Giáo Sư H.
vỗ bụng 17, nhe răng ra cười, mà rằng:
- Vài hôm, anh về, ráng mà ăn
phở, anh gầy lắm rồi !
Cả bọn
sinh viên đều cười rộ lên. Giáo Sư H. là
người miền Bắc. Họ ngỡ Giáo Sư
quảng cáo cho món ăn quê hương của ông, nên
cười chế nhạo tự ái địa
phương của ông.
Giáo Sư
như đoán hiểu, day lại giải thích bằng
ngoại ngữ :
- Các anh đừng lầm.
Người bình dân này không mong ăn được gan
sống, trứng sống hoặc các thức ăn bồi
bổ khác. Món ăn bổ nhất và rẻ tiền
nhất, mà hắn có thể hưởng được là
món phở. Tôi khuyên thiết thực chứ không phải vì
tự ái địa phương, mà cũng không đùa.
Con bịnh
được cho nằm thêm mười hôm để quan
sát lại.
Tất cả
đoàn Y Khoa, ai cũng xem hắn là tác phẩm của
họ. Họ đã để bao nhiêu là mồ hôi, là tâm trí
vào con người của hắn, nên họ cứ ngỡ
là chính họ đã tạo ra hắn.
Vì thế,
họ đã thương mến hắn như thương
mến một đứa con đẻ. Còn sót lại bao
nhiêu ngày ở chung với hắn, họ cố
thương mến vội vàng để vớt vát được
bao nhiêu hay bấy nhiêu những mảnh tình vụn giữa
con bịnh và họ.
Vài hôm nữa
đây, hắn sẽ trở về làng xa hẻo lánh
của hắn và không bao giờ còn nghe ai nói đến tên
hắn nữa. Còn đâu con người hay ho, mà mỗi
giây phút, mỗi nhắc nhở cho họ tài giỏi tận
tâm và thành công của họ nữa.
Anh nông dân
đi đất ấy được mấy cô sinh viên
thêu tặng nhiều chiếc khăn tay rất đẹp,
sực nước hoa.
Mấy anh sinh
viên thì tiếp tế thuốc thơm, ngon ngoại
quốc, anh ta không biết cất đâu cho hết, vì Giáo
Sư căn dặn anh đừng hút thuốc điếu.
Những
bữa ăn của anh là những bữa ăn của ông
hoàng; phần ăn nhà thương của anh, bọn sinh
viên lấy cho công nhơn nhà thương hết, rồi thay
vào đó là gà nấu đậu, cà-ri dê, sô-cô-la đủ
thứ món ngon, vật lạ, mà họ xuất tiền ra
để mua sắm.
Bàn đầu
giường của 17 ngày nào cũng được trang
trí bằng hoa thơm, một đĩa trái cây, và
giường anh dược trang trí bằng những cô khách
sinh viên xinh xắn hay ngồi xề lại để nói một
câu chuyện ngắn ngắn với anh.
Lần
lần, giường 17 biến thành câu lạc bộ
của hai mươi sinh viên trai và gái, nội, ngoại trú
và thường. Họ trực họp ở đó trong
những phút ngớt việc, họ hỏi thăm công
việc đồng áng của anh ta, họ trao đổi
tin tức với nhau, kẻ nắm chơn anh, người
vuốt tóc anh, mà đàm đạo như trong sa-lông tân khách vuốt ve một lọ
cổ quý.
Còn ba hôm
nữa là hắn ra nhà thương.
Còn hai hôm
nữa...
Còn một hôm
nữa...
Hôm kế chót
ấy, họ bu lại đó mà làm thinh, bùi ngùi nghĩ đến
sự vĩnh biệt hôm sau: “bá
niên vạn kiếp nan tao ngộ !” Cả đến
Giáo Sư H. và ông Phụ Giáo làm việc bù đầu, mà
cũng tìm cách ghé qua, để nói đùa với hắn
một vài câu, nói bông lơn ngoài miệng, mà lòng ngậm ngùi
thương ai.
Hôm sau đó,
Giáo Sư H. đi thăm bịnh, chừa giường 17 lại,
đặng thăm sau hết để giã từ. Khi ông và
đoàn sinh viên tới nơi, con bịnh đã sẵn sàng
khăn gói.
Bác Sĩ
chưng hửng, hỏi:
- Về ngay bây giờ à?
Thường thường, cho về hôm nay, thì chiều
lại, hay ngày sau, người ta mới về chứ.
- Thưa Bác Sĩ, tôi
nhớ nhà quá.
- Ừ, thì về. Nhớ
ráng mà ăn phở nhé!
Giáo Sư
bị sinh viên gán cho tục danh là ông “Thầy phở” vì ai
ra về, ông ấy cũng căn dặn ăn phở
cả.
17 từ
biệt từng người đã săn sóc mình, từ
biệt từng người những con bịnh khác,
rồi mang gói ra đi.
Giáo Sư H.
thấy sinh viên trìu mến con bịnh quá, đoán biết
tâm trạng họ, nên thấy cần đề cao khoa
học, để cho tự ái của họ lùi về
đúng chỗ của nó. Ông nói:
- Nếu biên sổ tính tỉ
mỉ, thì con bịnh nầy đã tiêu phí của công
quỹ gần tám mươi nghìn đồng, trong non hai
tháng trời về tiền cơm, tiền thuốc,
tiền công mổ xẻ vân vân...
Tuy
thế, công quỹ không cho hắn bao nhiêu đâu, mà các anh,
các chị, tuy khó nhọc cũng chẳng cho hắn bao
nhiêu. Chính khoa học đã cho hắn tất cả. Từ
phương pháp tối tân, dụng cụ mổ xẻ
tối tân, đến các thứ thuốc trụ sinh
đều là công của khoa học, của phương
pháp tìm tòi rất khoa học và của khoa học.
Vừa nói, ông
thầy lỗi lạc và đám sinh viên vừa theo dõi bằng
mắt con người tốt số đã thoát khỏi nanh
vuốt của thần chết.
Hắn ra
tới vỉa hè, bước xuống phố, để
băng qua đường Hai Mươi.
Hắn vui mừng, nên đi xăn xái, cúi xuống nhìn
lớp nhựa đen, như đang nghĩ đến
ruộng nương xa xôi, mà hắn rời bỏ mấy
tháng nay. Hình ảnh một túp lều tranh bên bờ
rạch, chắc đang hiện lên, thân thiết hơn bao
giờ cả.
Bỗng
một chiếc cam-nhông, một
sản phẩm của khoa học, từ phía Ngả
Bảy lù lù tới đâm vào hắn. Chiếc bọc gói
văng ra xa, còn hắn thì ngã xuống, rồi bánh xe
nặng đè lên ngực hắn.
Cả đoàn
Y Khoa đều kêu trời lên, rồi đứng lặng
người, chết sững trước sự bạc
bẽo của số mạng. Chị ngoại trú
Hương rú lên một tiếng, rồi ngất đi trên
cánh tay anh Thập, một sinh viên mới vào học, ngơ
ngác không hiểu gì cả.
Anh ngoại trú
Danh đấm ngực mà kêu:
- Trời ơi, bao nhiêu công của
hai tháng trời ! Thật là vô lý!
Giáo
Sư H. chỉ thở dài mà nói nho nhỏ:
- Khoa học đã lấy lại
tất cả những gì khoa học đã cho..
No comments:
Post a Comment