Bình Nguyên Lộc
Thật là huyền diệu,
sự đứng yên được một chỗ trên
không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà.
Chim thầy bói nghiêng
đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như
bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau
lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng
nước, nó lại bị bắn tung trở lên như
một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một
con cá nhỏ.
Cộc ngửa mặt lên
trời để theo dõi ông câu kỳ dị và tài tình
ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa
nước bên kia bờ rạch níu lại.
Trên
một tàu dừa nước, một con chim thằng chài
xanh như da trời trưa tháng giêng, đang yên lặng và
bền chí rình cá.
Trong
thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang
sống, ai cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho
đến những con sinh vật nhỏ mọn qui tụ
quanh các ngọn nước.
Màu
xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh nào sánh
kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự
bền chí của các lão cò sầu não là ngang vai thôi, cái
bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi
tên xanh bắn xuống nước nhanh như chớp,
mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi.
Thằng
Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ làm cho
nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chơm chởm
những cọng lông bông, nhắc nhở nó những kép võ
hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mê, cách
đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên
làng.
Hồi
ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà
khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh
năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó
đùa giỡn với.
Nhưng
không hiểu sao một hôm tía nó bán chiếc chòi lá đi,
rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé
mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to
mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con. Rồi
họ đi lang thang từ rạch hoang vắng nầy
đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc
dừng bước nơi cái xó không người nầy mà
ông nội nó đặt tên là xóm Ô-Heo.
Nghĩ
đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng
nghe thèm người vô cùng, thèm còn hơn là thèm một trái
xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm
nay nó không được nếm.
Những
người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui
vẫn còn sống đủ cả. Những chiều nghi
ngút sương mù từ đất lầy bốc lên, và
những đêm mưa gào gió hú, những người ấy
kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma rởn
óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao,
Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó
thích vườn tược sầm uất hơn cảnh
rừng tràm tối mịt hoặc cảnh đồng không
bát ngát ở đây. Ở đây, cho đến tiếng chó
sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó
săn và mấy con gà giống mang theo, đã ngã lăn
đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng
Cộc ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không
chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm, còn muỗi
mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả
một nắm đầy.
Chưa
bao giờ mong mỏi của Cộc được
thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó vừa thèm
người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên
trong rừng tràm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo
khua nước:
Hò
ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,
Muốn ăn trứng nhạn
phải lòn hang mai.
Mũi
xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên
xuồng, chồng chèo lái, vợ ngồi không trước
mũi mà hò. Cặp vợ chồng nầy, Cộc quen
mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ
đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển
để bắt cua và bắt ba khía, một năm mấy
kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là
tiếng hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó
ăn một cục đường từ nơi xa mang
về.
Thà
là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu
thì cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao
giờ cả. Nên chi Cộc nhìn xuồng chèo khuất
dạng rồi thì xây lưng tức khắc để
chạy lên Ô-Heo.
Trọn
vùng nầy, ông nội nó đặt tên là Ô-Heo. Nhưng riêng
trong gia quyến nó thì Ô-Heo chánh hiệu là một cái gò xa
ở trên kia, cách mé rạch đến hai dặm hú.
Số
là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông
nội nó với tía nó đi kiếm đồ ăn trong
rừng, đã gặp nơi đó một ổ heo
rừng.
Cả
ổ heo đều bị sát hại hôm đó và việc
canh tác của gia quyến nó về sau nầy đã
đuổi thú dữ đi xa. Tuy nhiên, đề phòng chúng
trở lại, ông nội nó đã cấm nó lên Ô-Heo một
mình.
Thằng
Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì Ô-Heo có
sức quyến rủ của một trái cấm, nhưng
về sau, nó gặp người nơi đó.
Ðó
là vài người đờn ông và đờn bà, nói là ở
xa lắm, cách đó một ngày đường sông. Ðờn
ông thì đến để gác quốc, gác nhan sen, còn đờn
bà thì để nhổ bồn-bồn về làm dưa bán.
Ðó
là những người bạn bí mật của nó, nó
giữ kín không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện
xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám hát,
đám cúng đình, tóm lại tất cả sanh hoạt
của làng mạc mà từ lâu Cộc không thấy và
ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ
niệm xa xôi.
Cộc
chạy qua khỏi ruộng nhà và đứng lại
nghỉ mệt. Nó mệt lắm vì nó chạy dưới
nước và dưới bùn, mặc dầu lúa đã
đến mùa gặt.
Năm
xưa, gia quyến nó đến đây vào cuối tháng
giêng, sau khi cúng ông vải xong ở quê cũ.
Ông
nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài
bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa, như con
vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối
thịt xanh um của biển rừng tràm nầy. Thành ra
ruộng nhà nó mang một hình tròn kì dị, không tròn
đều đặn vì không ai chỉ huy được
sự cháy rất là rắn mắt của ngọn lửa.
Cộc
nhìn ruộng mình một hồi rồi cười khan lên.
Ðám rừng bị khoét một lỗ để làm ruộng,
trông như đầu tóc trẻ con được mẹ
cạo, nhưng mới cạo có một mảng thì có
chuyện gấp, bỏ dở công việc; đứa bé
bị chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp.
Lúc
ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi
trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc
để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng
nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm
tươi rói không cháy được nầy, tía thằng
cộc đành cấy lúa giữa những gốc ấy,
mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía
nó nói mười năm nữa, tràm chết cũng vẫn
còn đưa cẳng lên như vầy.
Sau
lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém
dưới trận lửa khai hoang, không chết ngay,
nhưng „CHẾT NHÁT“, cứ mỗi năm chết lần
mòn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám
đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, câm hận nhìn
chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang
chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của
chúng, đã sát hại chúng.
Sau
đó, rừng tràm dày mịt, chằn chịt những dây bòng bong, dây choại,
bò từ thân cây nầy qua thân cây khác.
Thằng
Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào
cả. Nó đánh bạo chen qua những cây bình-bát, cây ráng,
mọc xen với tràm, để đi tới đích.
Một
ổ chồn cộc bỗng
chạy qua trước mặt nó, khua lên một cái
roạch, làm nó giựt mình, nhưng tiếng người
trên Ô-Heo cách đó chừng hai hàng cây, giúp cho nó vững
dạ.
Tiếng
đờn bà hỏi:
-
Anh hổng sợ thằng Mùi hay
sao ?
Tiếng
đờn ông đáp:
-
Thằng Mùi thì
qua cho một loi là nhào hớt.
Cộc vẹt
cỏ lá, đi mau đến đó và khi nó chun ra khỏi
khối xanh thì hai người có mặt trên gò Ô-Heo sợ
hãi ngồi dang ra. Người đờn ông gác quốc là
người quen, người đờn bà nhổ
bồn-bồn thì lạ hoắc. Chị nầy trẻ
đẹp hơn tất cả những chị mà nó quen
biết từ lâu.
Người
đờn ông tự trấn tỉnh lại ngay, ngoắt
nó lại mà hỏi:
-
Muốn về trển hay không Cộc
? Muốn thì đi theo chị hai mầy đây, chỉ có
một đứa em gái ngộ lắm.
Trong
khi thằng Cộc mắc cở tía tai thì chị đờn
bà hỏi anh kia:
-
Ở miệt nầy có
người sao anh ?
-
Chỉ có một
nhà thôi. Mới
tới đây chừng năm năm.
-
Quen hay lạ ?
-
Lạ. Họ
ở trên Sa-Ðéc lận.
Chị đờn
bà an lòng, vui lại được và nói với Cộc
để mua lòng kẻ đã bắt chợt việc
thầm lén của chị:
-
Em của chị
không bao giờ chịu về làm dâu ở một chỗ
như vầy. Em có muốn thì phải ở rể thôi.
Rồi
hai người lớn cười ngặt nghẹo với
nhau.
Thằng
Cộc mới mười lăm, nhưng cao lớn
gần bằng người đờn ông kia. Mình trần
của nó nổi u, nổi nần những bắp thịt
rắn như nắn bằng đất sét gắn vào
đó rồi nung cho đen và cứng.
Sự
nẩy nở của thân thể nó đi song đôi với
sự trưởng thành của đời sống sinh lý
bên trong của nó. Năm nay nó đã bắt đầu bâng
khuâng mỗi khi chiều xuống, mặt trời
đốt cháy đỏ đầu rừng tràm trầm
thủy trước nhà. Nhưng sống cô đơn ở
đây, nó không biết chuyện trai gái như vầy là
xấu đến mức nào và nó phải có thái độ
làm sao nên bối rối lắm.
Chị
đờn bà nắm tay nó, rị nó ngồi xuống bên
cạnh chị, vỗ lên đầu nó rồi dỗ
ngọt:
-
Chị không ăn thịt em rể
chị đâu mà sợ. Mầy mà về trển làm
ruộng thì ai cũng ưa. Làm rể có công, ba năm thì má
chị gả con Thôi cho mầy liền. Nói thiệt đó
mà.
-
Nó muốn
trốn theo qua dữ lắm, người đờn ông
nói, nhưng nó còn ngại.
-
Ngại gì ?
-
Thì lo sợ cái
việc xa xôi đất lạ đó mà.
-
Em nè, chị đờn
bà lại hỏi, nhà có mấy người ?
-
Bốn
người.
-
Ai với ai ?
-
Ông nội tui, tía
tui, má tui với tui.
-
Làm mấy công
đất ?
-
Hồi đó
bốn công, bây giờ mười công.
-
Gặt
được bao nhiêu giạ mỗi mùa ?
-
Tám giạ.
Chị đờn
bà cười ngất một hồi rồi day lại
hỏi nhơn tình:
-
Trời ơi,
ruộng gì mà mười công đất, chỉ gặt
được có tám giạ thôi ?
Người đờn
ông không cười, đáp:
-
Ðất
nước mặn nào mới khai hoang cũng như vậy
hết.
-
Rồi lấy gì
mà ăn em nhỏ ?
-
Tía tui đi
đổi lúa thêm, ở đâu không biết, xa lắm.
-
Ðổi bằng
gì ?
-
Bằng cá khô. Với lại cũng chẳng cần
ăn cơm. Nhiều khi ăn rùa, ăn rắn trừ
cơm. Ở đây, rùa nhiều như kiến. Ðốt
rừng rồi đón trên đầu gió một lát là chúng nó
lạch cạch chạy trốn lửa, bắt không
kịp lận.
Chị
đờn bà tỏ vẻ ái ngại một hồi rồi
nói:
-
Nãy giờ
chị nói chơi đó. Nhưng biết được
tình cảnh của em, chị thật bụng thấy là em
cần đi theo chị hoặc là anh đây cũng
được.
Chị ta vói tay
sau lưng, lấy bầu nước ngọt, mở nút ra
rồi ngước mặt lên trời, rót nước vào
miệng. Chị uống ừng ực vài cái rồi
lại nói:
-
Em có
được ăn chè lần nào không ?
-
Không, từ
năm năm nay rồi. Cách đây
một ngày đường nước, không có nhà cửa ai
cả, không có quán tiệm gì hết. Với lại cũng
không có tiền.
-
Ở Sa-Ðéc sao
lại không vô Tháp Mười mà nhè xuống U-Minh nầy ?
-
Tui cũng không
biết tại sao. Ở Tháp Mười dễ chịu
hơn hả ?
-
Chị cũng
không biết. Chỉ biết
đất hoang ở Tháp Mười gần quê cũ
của em hơn. Quê em ở gần Cao Lãnh phải không ?
-
Gần.
-
Em có nhớ xoài Cao
Lãnh hôn ?
-
Tui lạy
chị, đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa, tui
thèm muốn chết đi. Năm năm
nay, tui không có biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối
trồng sau nhà cũng chết queo vì đất còn mặn
quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc tôi được
ăn ngọt đây. Úi chà ! Trưa rồi, chắc tới
bữa cơm, thôi tui về nha, anh, chị ?
-
Ừ về, mai
mốt lại lên đây nữa nha ?
-
Xuồng anh
chị ở đâu ?
-
Dưới kia. Nhổ bồn-bồn ở dưới
ấy, nhưng lên đây cho khô ráo để ăn cơm
trưa é mà. Em Cộc nè, em của chị ngộ lắm,
trắng lắm nghe không ?
Chuỗi cười của
hai người nhơn tình ấy đuổi theo sau lưng
Cộc khiến cho nó, trong giây phút, không muốn về nhà
nữa.
Ra khỏi rừng tràm râm
mát, mắt Cộc bỗng dưng như đổ hào quang
trước ánh nắng tháng mười. Không khí bị
đốt cháy, đang rung rinh như nước xao, và nó
tưởng chừng như mái lá nhà nó, đen thui
dưới kia, sắp cháy đến nơi.
Thằng Cộc về
tới nhà thì cơm trưa đã dọn xong.
-
Mầy đi
đâu mà tới đứng bóng mới về ?
-
Tui đi
lượm lông chim lông-ô.
-
Lông đâu ?
-
Mà kiếm hoài
hổng có.
-
Mồ tổ cha
mầy, nhiều chuyện. Chim lông-ô đời xưa
mới có chớ đời nay đâu còn nữa. Mai gặt nghe không ? Ăn cơm khuya
rồi xuống đồng cho sớm, đừng đi
đâu hết.
Cả nhà
lặng lẽ ngồi quanh mâm cơm, không ai nói với ai
lời nào. Những
người nầy, sống biệt tịch ở đây
lâu ngày rồi, đã biến thành á khẩu vì thói quen.
Riêng thằng Cộc, sự
cần nói của tuổi thơ đang lên mạnh lắm
như cần chạy nhảy, cần ăn uống
vậy. Câu chuyện hồi nãy trên gò Ô-Heo khiến nó càng
bắt mùi nói thêm, nên nín không được, nó hỏi ông
nội nó:
-
Nội nè, hồi
mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước
gì, tui quên rồi ?
Nó hỏi như vậy vì nó
vừa nhìn ra cái giếng bên hè và nhớ ra là giếng đã
ngọt nước hôm mùa nắng trước, mặc
dầu đã được đào năm năm rồi.
-
Uống
nước đọng trên lung, trên rừng, chớ
uống nước gì.
-
Sao mình tới
đây ông nội ?
-
Ðã nói cho mầy
biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng, làm công
khổ cả đời.
-
Ở đây, mình
có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội
thằng Cộc lặng thinh. Nó nhìn ông nội nó rồi
chợt nhận ra rằng năm nay ông cụ già quá. Tóc râu
của ông cụ đã trắng bông. Nhớ ra ông cụ
thường than mình nhớ mồ, nhớ mả ông bà quá,
nó bùi ngùi thương ông nên dòm ra sân để quên.
Bấy giờ
bóng của bốn cái nồi rau đã tròn vành, chỉ
rằng thật đúng ngọ. Bốn cái nồi bể
ấy, hèn thế mà rất là công dụng đối
với nhà nó.
Ðể tránh
nước mặn tràn bờ ngập sân, tía nó đã
đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba
chơn tréo như giá trống của bọn đờn
thổi đám ma. Trên mỗi giá, đặt một cái
nồi lủng đít, và trong nồi để đầy
đất mà tía nó mang từ xa về. Ðất ở đây
mặn chát dùng không được. Hành, ớt, rau răm,
rau mồ om, được trồng trong mấy cái
vườn cao cẳng đó. Ðó là bốn thứ tối
cần, đất mặn bao nhiêu cũng phải lập thế
mà trồng cho được, không thôi không có món gia vị
nào để ăn cá nữa.
Bốn miếng
vườn cao cẳng và tí hon lại là chiếc
đồng hồ của nhà nầy vào mùa khô. Cứ
bằng vào bề dài của bóng giá là tính giờ
được ngay, và khi bóng nồi tròn vụm che mất
bóng giá là đúng ngọ ngay bon.
Nhìn ra sân một
hơi, nhai nuốt hết cơm, nó day vô và hỏi tía nó:
-
Năm nay mình
gặt được cỡ bao nhiêu tía ?
-
Nhờ ông bà,
đất nước, ít lắm cũng được
hăm lăm giạ.
-
Cũng chưa
đủ ăn.
-
Ðủ gì mà
đủ, má nó nói, nhà mình phải ăn trăm rưỡi
là số chót.
-
Với lại,
tía thằng Cộc trở vào câu chuyện, tại lúa nàng
Cụm thất gạo lắm. Năm tới ta gieo
giống Tầm Vuột chắc được gạo
hơn nhiều. Năm nay hễ chuối trổ buồng
thì năm tới tao trồng sả, trồng ổi
được rồi đó.
Cả nhà
đều hớn hở trước dự định
tương lai tốt đẹp kia. Nhưng thằng
Cộc chưa thấy gì là xán lạn cả. Trồng
ổi thì cũng phải khá lâu mới có trái, trong khi đó nó
tiếp tục thèm chè, thèm xưng-xa, nhớ đám cúng
đình, nhớ hát bội và bị một hình ảnh
mới quyến rủ, hình ảnh của con Thôi, chắc
là giống hệt chị nhổ bồn-bồn, tức là
có duyên lắm.
Con trai làng
thấy con gái rất thường, thế mà họ còn
thầm lén rủ nhau đi một ngày đường
nước để ra đây gặp nhau, huống hồ
gì nó chưa được nói chuyện với con gái
lớn lần nào hết. Những đứa con gái bạn
của nó cách đây năm năm, nó nhớ lại thì không
có gì quyến rủ cả. Ðứa nào cũng cạo
trọc chừa bánh bèo phía sau và giữa chiếc bánh bèo,
mọc ra một chòm đuôi dài trông đến buồn
cười.
Nhưng mà con gái
lớn phải khác. Cộc chưa thấy con gái lớn,
nhưng tin chắc như vậy. Có một linh cảm gì,
ở đâu từ kiếp tiền thân của nó bay lại
và giúp cho nó biết như vậy.
Những cô con gái
lớn chưa thấy hình ấy, mà đã có tiếng kêu
được, chúng âm thầm gọi Cộc, tiếng
gọi như văng vẳng đâu trong không trung.
Thẩn thờ,
thằng Cộc nói lại câu hồi nãy, và giận dỗi
thêm một đoạn, khiến ông nội nó giựt mình,
chống đũa mà nhìn nó trừng trừng:
-
Ở đây, mình
có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Tui
muốn đi quá, đi đâu cũng được,
miễn ở đó có làng xóm, có người ta.
*
* *
Thằng Cộc
thích mấy cây nọc nạng lắm. Bó lúa nào gác lên đó
cũng nằm yên cả chớ không chực rớt
xuống nước ruộng như những bó lúa gác trên
đầu nọc thường.
Ðó là những
gốc tràm mà cháng hai chẻ ra rất thấp. Khi
đốn tràm cháy, tía thằng Cộc đã trù xa,
đốn ở trên cháng hai ấy độ một gang
rưỡi nên bây giờ họ mới có nọc nạng
rất tiện mà dùng gác lúa.
Ông nội
thằng Cộc chống xuồng trên ruộng, len lỏi
qua mấy gốc tràm. Ông ghé từng gốc để cho
lúa xuống xuồng.
Ðủ thứ là
cò, cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương, thân mật nhìn
gia đình bốn người gặt lúa nhà. Ðây là bốn
người độc nhứt mà chúng thấy mỗi ngày
ở vùng hoang vắng nầy; ban đầu chúng sợ hãi
họ, nhưng về sau, thấy họ hiền từ quá,
chúng làm quen với họ đã được bốn
thế hệ cò rồi.
Má thằng
Cộc lội sình tới đầu gối, và lội
nước gần tới háng nhưng vui vẻ hơn ngày
nào hết.
Bà ta tằng
hắng rồi cất tiếng hò:
Hò... ơ... tiếng anh ăn học làu
thông,
Lại
đây em hỏi khăn lông mấy đường ?
Hò xong câu
đố ấy, bà lắng đợi chồng bà hò
đáp. Nhưng tía thằng Cộc cứ làm thinh mà gặt,
khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự
chồng cho đỡ mắc cỡ:
-
Tía nó sao câm cái
miệng lại, không bắt vậy ?
-
Hứ, nhiều
chuyện nà ! Già rồi mà còn hò với hát, bắt với
ghẹo. Bộ còn trai gái gì đó sao ?
Vì vui kết
quả của cần cù nên má thằng Cộc quên rằng
bà ta đã quá mùa hò rồi. Tía nó nhắc lại bà ta mới
chợt nhận ra. Tuy nhiên bà vẫn ngậm ngùi nhớ cái
thú vui ấy thuở bà còn con gái và ngay bây giờ đây, tóc
đã nhuốm hoa râm rồi, bà cũng hưởng được
nếu còn ở làng, hưởng bằng cách khuyến khích
bọn trai trẻ hò đối đáp với nhau.
Thằng Cộc
thì xôn xao trong lòng, nhớ lại lời chị nhổ
bồn-bồn bảo rằng nó mà về làng làm ruộng
thì ai cũng ưa. Ừ, nó sẽ hò đối đáp
với con Thôi. Chậc ! Mà nó phải nhờ má nó dạy hò
mới được. Nó có nghe hò lần nào đâu
để mà thuộc giọng và biết câu.
Ðến chiều
thì xong xuôi cả. Ông nội thằng Cộc chống
xuồng lúa để ra bờ rạch, còn tía nó, má nó và nó
thì lội nước sình mà về bộ.
Ðập lúa và
phơi phong mất hết mười ngày. Trong những
ngày buồn tẻ, phẳng lì giữa cảnh bùn lầy
nước đọng ấy, thằng Cộc càng nao
nức muốn về làng.
Lại đây em hỏi khăn lông
mấy đường ?
Câu hò của má nó
ám ảnh nó từ hôm gặt đến nay. Nếu con Thôi
mà hỏi đố nó câu ấy chắc nó phải ngậm
câm, cho dẫu được phép trả lời bằng
văn xuôi.
Khăn lông là
vật dụng mà nó đã quên rồi thì còn biết là
mấy đường để còn đáp cho thông. Từ
lâu, nó chỉ có một chiếc quần xà lỏn trên
người, mùa nắng cháy như mùa mưa lạnh. Ðêm nó
nhờ nóp che thân cho đỡ bị muỗi đốt và
gió cắt da.
Những món
đồ cần dùng của thế giới văn minh
ấy cũng thuộc vào những thứ gợi thèm
như bánh trôi nước, bánh ít trần và mái tóc của con
Thôi.
Hôm ấy, dừng
bồ cho con cháu đổ lúa vào, ông nội thằng
Cộc long trọng nói:
-
Ngày mai ra biển.
Không ai hỏi ra biển
để làm gì hết. Thằng
Cộc cũng làm thinh, trái với mọi ngày mà nó hỏi
không kịp đáp.
Con rạch Ô-Heo
trước nhà, nếu có đi trên ấy thì phải
về ngọn, nó nghĩ như vậy, đi về
ngọn để rẽ qua những kinh rạch khác mà tìm
làng mạc sầm uất, chớ xuôi dòng ra biển thì còn
nghĩa lý gì nữa chớ ?
Nó chưa
được ra biển lần nào cả và mấy năm
trước đây nó muốn theo ghe của bọn bắt
cua để đi một chuyến lắm, mà không
được phép đi.
Chuyến đi
đầu đến một chơn trời xa lạ mà ông
nội nó vừa cho biết, không làm cho nó phấn khởi
chút nào cả.
Ông nội nó
tiếp, dặn mẹ nó:
-
Con mẹ Trùm,
ngày mai phải dậy khuya nấu cơm. Tao đi với
thằng Trùm và thằng Cộc, đi thật sớm
để gặp con nước lớn ngay tại cửa
mà về cho tiện.
*
* *
Rạch Ô-Heo
nhỏ xíu cho nên tràm mọc ở hai bên bờ giao nhành
với nhau được và phủ kín cả mặt
nước.
Rạch tối
om, đi như đi trong hang. Bây giờ thằng Cộc
mới thấu nghĩa hai tiếng “hang mai” trong câu hát
của bọn đi bắt ba-khía.
Những nơi
ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô-rô và cóc kèn
mọc đầy.
Nước ròng
chảy xiết, xuồng trôi bon bon. Tuy vậy, ông nội
và tía cũng chèo cẩn thận để mau tới
nơi, hầu về kịp nội buổi chiều ngày
đó.
Gần tới
trưa, xuồng không đi mau nữa.
-
Nước
đứng rồi, ông nội nói, tức ta gần tới
cửa rồi.
Họ thôi chèo,
để cho xuồng trôi linh đinh, không tiến cũng
không lùi, rồi lấy cơm dỡ trong mo nang ra mà ăn.
Không đi thì
thôi, đã trót đi, và lúc gần tới đích, thằng
Cộc nghe thích thấy biển coi ra sao. Nó và cơm hối
hả rồi hỏi:
-
Ra đó làm gì ông
nội ?
-
Rồi mầy
sẽ biết.
Họ ăn
cơm xong thì nước bắt đầu lớn. Họ
chèo ngược nước cho đến quá đứng
bóng thì đến một nơi kia mà ông nội tuyên bố
rằng đó là biển.
Thằng Cộc
ngạc nhiên lắm mà chẳng thấy biển đâu
cả. Con rạch tiếp tục đi xa ra ngoài kia, hai hàng
rào cây như đứt khúc, đâm vào một tấm vách
tường xanh như da trời.
-
Biển ở
đâu, ông nội ? Cộc hỏi.
-
Ðằng xa kia,
xanh xanh đó.
-
Sao không ra ngoải,
ông nội ?
-
Không cần.
Tía thằng
Cộc chèo mũi, rút sào cặm xuống bùn, theo lịnh
của ông nội nó.
Ông nội
gọi Cộc lại gần rồi hỏi:
-
Con có thấy gì
khác lạ không ?
-
Không, ông nội
à.
-
Không thấy ? Cây
ở đây không khác cây sau lưng mình à ?
-
À... phải
rồi.
Cộc nhìn
lại thì quả như lời ông nội nó nói. Nơi
đây, đất đã hết, mà chỉ còn bùn. Tràm
mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại,
như là dân ở biên giới một nước kia
dừng lại nơi bìa lãnh thổ mình.
Hết tràm thì có
một khoảng trống, nửa bùn, nửa đất,
trên ấy cỏ ống rậm ri
và chim cao cẳng đủ loại
đáp đầy trong cỏ.
Tràm đứng
trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc trên bùn
đen. Ðó là những cây ốm nhom chen nhau mà vượt cao
lên, cây nầy cách cây kia không đầy bốn gang tay.
Bờ biển
thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy
như một đạo binh xuống núi, tuôn tràn từ trên
cao xuống mé biển ngoài xa.
Xa, xa lắm, có
những cây mọc lẻ tẻ như những tên lính xung
phong mau bước tiến tới, để hãm thành
hầu lập công.
-
Nhìn xuống
gốc cây, ông nội bảo.
Nước
chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen
dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại
trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đen
trắng đối chọi nhau trông rất đẹp.
-
Cây gì mà lạ
vậy ông nội ? Trổ bông ngay dưới gốc ?
-
Bông trổ trên
đầu những cái rễ ăn lên mà người ta
gọi là rễ gió. Cây nầy là cây mắm. Ðây là rừng
mắm đây.
-
Cây mắm ? Sao
tui không nghe nói đến cây mắm bao giờ ?
-
Con không nghe nói, vì
cây mắm không dùng được để làm gì hết,
cho đến làm củi chụm cũng không
được.
-
Vậy chớ
trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội,
lại sanh hằng hà sa số như là cỏ ấy ?
-
Bờ biển
nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho
rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất
bùn mềm lũn và không bao giờ thành đất thịt
được để ta hưởng nếu không có
rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất.
Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm
lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời
tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc
được.
Thấy thằng
cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai
nó mà tiếp:
-
Ông với
lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn.
Ðời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít,
nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu
của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Ðời cây
mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài
mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là
con cháu của họ hưởng.
Con, con
sắp được hưởng rồi, sao lại
muốn bỏ mà đi ? Vả lại con không thích hy-sanh
chút ít cho con cháu của con hưởng sao ?
Thằng Cộc
nhìn lại ông nội nó và nghe thương không biết bao
nhiêu ông già đã bỏ mồ, bỏ mả ông cha
để hì-hục năm năm trong đồng chua,
nước mặn ở Ô-Heo.
Phải, cứ
theo dự đoán của gia đình thì nó sắp
được hưởng, tuy không nhiều, mà rồi
sẽ nhiều.
Nó nắm
chặt tay ông nội nó và nó thấy ông nội nó giỏi
quá. Ông có biết chữ nho kia mà.
-
Ông ơi, nó than,
nhưng tràm buồn quá.
-
Tràm sẽ
khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần
rồi thì ta làm ba mươi công và sẽ gọi dân cấy
gặt ở xa tới phụ lực. Rồi tía con sẽ
cưới vợ cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt
chước ta, tràn tới đây mà phá rừng, vùng Ô-Heo
sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu.
Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra
cau, dừa, xoài, quít, đầy nhà, nước sẽ
ngọt một khi đất thuần...
-
Và sẽ có chè
ăn ?
Ông nội
cười ha hả mà rằng:
-
Gì chớ chè thì
sẽ có lu bù.
-
Mà ông nội nè,
cưới vợ làm sao được, ai thèm về Ô-Heo ?
-
Hai năm nữa
người ta sẽ đồn rằng đất Ô-Heo
thuần. Những kẻ nghèo khó như ta chỉ mong
được tới đây.
Ông nói
điều nầy, không biết con hiểu được
hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ miền Trung tràn vào
đây đều chịu số phận của cây mắm
hết, từ xứ Ðồng Nai nước ngọt cho
tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả.
Họ
đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc
nầy để lót đường cho con cháu họ đi
tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp
đầu liều chết đuối, lội qua tô
nước rọng hủ đường để làm cầu
cho bọn đi sau vào đến nơi có chất ngọt.
Nhiều lớp tiên phuông đã ngã gục như rừng
mắm. Rồi thì ông sơ, ông cố con, ông nội đây
là tràm mới kiếm được miếng ăn...
-
Tía.
Thằng Cộc
lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như nó
được hay không nên kêu tía nó bằng một giọng
thương yêu trìu mến hết sức.
-
Thôi, nhổ sào
để đi về cho kịp con nước, ông nội
ra lịnh.
Ông nội vui
vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu
hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác
đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ
tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa
tế Ðồng Nai.
Nước
sông trong sao cứ chảy hoài,
Thương
người xa xứ lạc loài đến đây
No comments:
Post a Comment