VÀI BÀI THUỐC THẦN HIỆU
Có nhiều bài thuốc giúp giữ gìn sức khỏe rất hữu hiệu. Chúng vừa đơn sơ,
rẻ tiền vừa dễ thực hành. Trong số các bài thuốc thần hiệu này có đánh
cảm, súc miệng ăn uống và nấu ăn bằng dầu dừa, trà lá Neem Ấn Độ, lá
Aloe Vera, rượu tỏi, lá Lô quất, lọc sạn gan mật và lọc sạn thận.
Đánh cảm
Cảm
lạnh là một một bệnh rất thông thường. Nhưng ngoại trừ một số dấu chỉ
quen thuộc như sổ mũi, tịt mũi, nhức đầu, người gai gai sốt, khó chịu ai
cũng biết, cảm lạnh thường khiến cho nhiều cơ phận khác bị suy yếu và
gây ra một số bệnh, mà các bác sĩ tây y và cả đông y cũng không khám ra,
không biết lý do tại sao, vì không có các vết nội thương ngoại thương,
cũng không có vi khuẩn và không có cơ phận nào bị hư hỏng. Tuy không
biết là bệnh gì nhưng các bác sĩ vẫn cho thuốc, thường là thuốc giảm
đau, càng uống càng không khỏi, lâu ngày bị mất trí nhớ, loét bao tử, hư
thận và khiến cho hệ thống thần kinh bị tê liệt. Cảm lạnh thường gây
đau nhức tứ chi mình mẩy đến tê bại không cử động được, nên có bác sĩ
cho là hệ thần kinh bị hư và đề nghị giải phẫu...
Lý do
1) Trời
mưa, trời gió hay trời lạnh mà mặc không đủ ấm, đầu không đội mũ, chân
không đi giầy, không mang tất ấm, cổ không quấn khăn vv... vì thế các cơ
phận thuộc bộ máy hô hấp (mũi, miệng, cổ họng, phổi... ) và tuần hoàn
(tim, dạ dầy, ruột, gan, thận, lá lách...) bị lạnh. Khí âm xâm nhập
nhiều qúa làm mất thế quân bình trong cơ thể, gây bế tắc kinh mạch, và
suy yếu các cơ phận.
2) Ngồi
trúng chỗ có luồng gió (ở tư gia, trong nhà thờ, nhà hội có mở cửa
trước cửa sau, hay cửa ngang hông, trong xe mở cửa kính hay máy lạnh qúa
vv... ) có thể đưa đến chỗ bị cảm.
3) Đặc
biệt tại những vùng sáng sớm và ban chiều trời lạnh, nhưng ban trưa trời
nóng (điển hình như California, Texas, Florida... ), có rất nhiều người
bị cảm lạnh, vì không để ý, mặc không đủ ấm khi đi làm ban sáng và về
nhà lúc chiều tối. Cứ thế, khí âm nhập vào người mỗi ngày một chút, và
từ từ khiến cho cơ thể bị suy nhược và sinh ra nhiều triệu chứng mà
không biết là bệnh gì.
Một số triệu chứng thông thường dễ nhận ra
1) Các triệu chứng bình thường dễ nhận ra:
1/ Sổ mũi, tịt mũi.
2/ Nhức đầu, nặng đầu.
3/ Ho.
4/ Cảm thấy người vừa nóng vừa lạnh: hơi sốt hay sốt nặng (khi có vi khuẩn gọi là bệnh cúm).
5/ Bần thần, mỏi mệt trong người.
- Nhưng
chính vì khí âm xâm nhập thân thể, khiến bế tắc kinh mạch, khí huyết và
làm suy yếu các cơ phận hô hấp và tuần hoàn, nên cảm lạnh làm nảy sinh
ra nhiều triệu chứng, mà cả các bác sĩ cũng không biết và không ngờ tới.
1/ Trằn trọc, khó ngủ ban đêm.
2/ Ngủ không thẳng giấc, đi tiểu lắp nhắp ban đêm, hay bị chuột rút.
3/ Đổ mồ hôi ban đêm.
4/ Đầy bụng, khó tiêu.
5/ Nhất là đau và nhức mỏi trong người: đặc biệt là hai cánh tay, cổ, bả vai, sống lưng, đầu gối, hai chân và hai bắp chân.
6)
Nhiều khi có cảm tưởng như bị đau nhức thần kinh hay từ trong xương, đến
độ bị bại xuội, cổ không quay được, không giơ hay co tay chân lên được,
không cúi xuống được hay không thể mặc và cài cúc áo quần vv....
- Đi
khám bác sĩ, chụp phim thì không có cơ phận nào bị hư hại hay tật bệnh
gì. Các bác sĩ chỉ biết cho thuốc giảm đau, bệnh nhân có cảm tưởng giảm
đau nhức, nhưng càng uống càng tệ hại thêm, vì người ngày càng bần thần,
mỏi mệt và đau nhức hơn. Thuốc giảm đau, thuốc ngủ sinh ra bệnh mất trí
nhớ, đau bao tử và đau thận...
7/ Tức ngực, nhói ngực, khó thở, hụt hơi.
8/ Nghẹt tim, tim hồi hộp, ngộp thở, hay có cảm tưởng bị bệnh tim.
9/ Khó tiêu, táo bón, nặng bụng, ợ chua.
10/ Đau bụng lâm râm.
11/ Tiêu chảy.
12/ Đau tức bên hông phải trên vùng gan.
13/ Đau tức bên hông trái trên vùng lá lách.
14/ Teo
tĩnh động mạch trên đầu (dẫn tới chỗ đau đầu và bị tai biến mạch máu
não vì lượng hồng huyết cầu và dưỡng khí không lưu thông đủ để nuôi óc).
15/ Da
mặt xanh xao, tái mét hay thâm, và người lúc nào cũng cảm thấy bần thần,
mệt mỏi như mất hết sức lực, chán nản, buồn sầu, chỉ muốn đi nằm, không
muốn làm gì, và không làm được gì, vì người lúc nào cũng mệt mỏi.
Đi khám bac sĩ, thử máu, thử phân, thử nước tiểu, chiếu điện, thì không tìm ra bệnh gì, và ai cũng bảo là bệnh giả đò.
16/ Trẻ
em bị cảm lạnh thì khó ngủ, hay ói sữa, biếng ăn, táo bón (hai ba ngày
mới đi một lần, mà phải dùng thuốc, phân hôi), tiêu chảy, hay khóc,
quấy, da không trắng và hồng hào, nhưng tái mét, khi khóc thì tím ngắt
mặt mũi chân tay, và không dỗ được.
- Tất
cả các triệu chứng trên đây đều có thể do cảm lạnh mà ra, đặc biệt các
trường hợp đau nhức số 5, trường hợp số 15 và số 16 là dấu chứng đã bị
cảm lạnh từ rất lâu, chứ không phải các cơ phận bị hư hại.
- Khi bị cảm lạnh, phần nào trong cơ thể yếu thì phần đó thường dễ bị ảnh hưởng.
- Có
nhiều người bị cảm lạnh hàng chục năm mà không biết, đi khám hết mọi bác
sĩ tại mọi nhà thương nổi tiếng và uống biết bao nhiêu thứ thuốc, mà
vẫn không khỏi bệnh. Và các bác sĩ vẫn không biết chính xác là bệnh gì,
kể cả các bác sĩ dông y và châm cứu. Đây là các trường hợp bị đau nhức
(số 5) và người mất sắc, bần thần, kiệt sức (số 15) và trẻ em (số 16).
Cách chữa
Có nhiều cách chữa.
1) Bình thường có thể cạo gió.
1/ Cách cạo:
- Dùng
đồng bạc hay tốt nhất là cái muỗng lớn (nếu bằng bạc nguyên chất càng
tốt) cạo gió bằng dầu nóng (hay bất cứ loại nào cũng được)
- bất đắc dĩ có thể dùng cả các loại dầu nấu ăn, đặc biệt là long não pha với dầu ô liu, nhưng tốt nhất là dầu dừa.
- Tỳ mạnh đồng bạc hay cái muỗng bằng kim loại sát xuống da.
- Cạo chậm rãi và kéo đường càng dài càng tốt.
- Như thế sẽ ít đau và không trầy da.
2/ Chỗ cạo: khắp nơi trên người
- Cạo:
cổ, gáy, trán, trên đầu, hai thái dương, bả vai, bên trong bên ngoài hai
cánh tay, mu bàn tay, ngón tay, lưng, ngực, bụng, bụng dưới, mông, bên
trong bên ngoài đùi, chân, bắp vế và mu bàn chân, ngón chân.
3/ Cạo gió rất khoa học nhưng ông bà cha mẹ chúng ta không giải thích nên mình không hiểu. Thật ra:
- cạo gió là đả thông kinh mạch để cho khí huyết lưu thông đều đặn trở lại,
- tái lập thế quân bình cho cơ thể,
- dầu nóng tăng khí dương,
- đồng bạc hay cái muỗng, tức chất kim khí, rút khí âm trong người ra.
Cạo gió xong là tự nhiên hết các triệu chứng kể trên và khỏi bệnh, thường là ngay tức khắc.
- Chỉ
khi bị cảm (cảm nắng cũng như cảm gió và cảm lạnh) cạo da mới đỏ hay có
hột và bầm tím, nếu bị cảm nặng từ lâu. Càng bị cảm lâu càng bầm. Nhưng
chỉ vài hôm sau là các vết đỏ và bầm sẽ biến đi.
Vì thế
nói cạo gió vỡ mạch máu da là không đúng. Ngày nay nhiều bác sĩ Mỹ cũng
bắt đầu tin, vì người ta đã cạo ngay trước mặt cho bác sĩ thấy.
- Tuy
nhiên, vì sống tại Tây Âu có nhiều người không quen hay chưa cạo gió bao
giờ, nên sợ đau hay sợ bị dị nghị, mà quên đi hay khinh thường cách
chữa bệnh rất hữu hiệu này của ông bà cha mẹ.
4/ Cách pha long não với dầu ô liu:
- 100 gr bột long não nguyên chất đã tán sẵn, mua ở tiệm thuốc bắc (không phải long não bỏ quần áo hay giết gián),
- pha với 1 lít dầu ô liu (dầu trộn sà lát loại nào cũng đựợc),
- bình thường các tiệm thuốc bắc bán bịch 1 pound long não (10 US$), thì pha với 1 galon dầu ôliu, rồi chia nhau.
- Dầu ô
liu pha với long não còn có thể dùng để thoa bóp, chữa trặc hay sưng
chân tay và thấp khớp rất công hiệu. Đau cổ, ho, thoa dầu ô liu pha với
long não một lúc sẽ khỏi.
2) Xông với nước lá
- Nấu một nồi nước lớn với lá sả, lá cây dầu huynh diệp, lá chanh, lá cam, lá quít, lá bưởi hay ngải cứu vv...
- Trước
khi trùm chăn xông trong phòng kín gió, thì bỏ thêm 10-20 gr bột long
não nguyên chất, nếu có (thường tiệm thuốc bắc có bán bịch lá xông có
thêm gói bột long não nhỏ).
- Xông
xong, lau mồ hôi khô, và mặc quần áo ấm ngay rồi uống vài viên thuốc cảm
hay nước trà gừng nóng, đắp chăn nằm nghỉ hay ngủ được một giấc, sẽ
thấy người khỏe ngay.
Vì khi
xông chảy mồ hôi nhiều nên cơ thể mất nhiều muối đạm, các lỗ chân lông
hở, do đó cần phải cẩn thận, không được tắm, kiêng ra ngoài, để đừng bị
lạnh trở lại.
3) Đánh cảm bằng cám rang
- Lấy cám bỏ vào chảo rang nóng lên.
- Bỏ vào miếng vải túm lại.
- Rồi vuốt từ trên đỉnh đầu vuống xuống.
- Vuốt
khắp nơi trong người: đầu tóc, mặt, ngực, bụng, cơ quan sinh dục, lưng,
mông, đàng trước đàng sau tay chân, lòng bàn tay bàn chân và ngón tay
ngón chân...
Cảm
nặng thì phải rang 2, 3 mẻ và vuốt vài lần sẽ đỡ ngay, vì mọi kinh mạch
đều được đả thông và khí huyết di chuyển bình thường trở lại.
4) Đánh cảm bằng gừng
- 100 gr gừng giã dập,
- túm vào một chiếc khăn hay vải mỏng,
- nhúng vào một bát rượu mạnh (rượu đế, volka vv...),
- vuốt
từ đỉnh đầu xuống cả người phía trước: mặt mũi, ngực, bả vai, cánh tay
bên trong bên ngoài, lòng và mu bàn tay, rồi các ngón tay, bụng, bắp vế
xuống cho tới lòng và mu bàn chân và các ngón chân, phía sau: đầu, ót,
gáy, lưng, mông xuống cho tới lòng bàn chân và các ngón chân.
5) Đánh cảm bằng trứng gà và đồng bạc nguyên chất (pure silver coin)
- Luộc 5-7 trứng gà chín lên (18 phút thì trứng chín), luôn để nước sôi.
- Bóc vỏ, bổ đôi, bỏ lòng đỏ.
- Nhét đồng bạc nguyên chất vào giữa.
- Túm vào mảnh vải gấp đôi hay khăn hơi dầy một chút để khỏi bị rát da.
- Rồi cứ thế vuốt từ trên đỉnh đầu xuống y như đánh cảm bằng cám và gừng.
- Vuốt cho tới khi nào trứng hoàn toàn nguội mới thay trứng và thay đồng bạc khác (mỗi trứng vuốt khoảng 10 phút).
Nếu bị cảm nắng, thì đồng bạc mầu đồng.
Nếu bị cảm lạnh, thì đồng bạc mầu đen, càng cảm lạnh nặng càng đen.
Nếu bị cảm gió nữa thì đồng bạc mầu đen nhánh có sắc xanh.
Nếu vừa cảm nắng vừa cảm lạnh, thì đồng bạc có cả hai mầu.
1/ Tùy
trường hợp nặng nhẹ, có thể đánh từ 4 trứng trở lên. Bình thường mỗi lần
đánh khoảng 4-5 trái là được. Để tránh bị lạnh trở có thể đánh đầu,
ngực và lưng trước, rồi mặc áo, che khăn hay đắp chăn, sau đó mới đánh
tới phần dưới của thân thể. Nếu muốn đánh một lần cho cả phía trước hay
phía sau, thì lấy chăn đắp phần thân thể đã đánh rồi hay chưa đánh.
2/ Đặc
biệt là trường hợp 5 và nhất là 15, có khi phải đánh tới 40-50 hay hàng
trăm cái trứng. Nghĩa là đánh làm nhiều lần, cho tới khi nào cảm thấy
người dễ chịu, khỏe khoắn, da dẻ hồng hào trở lại thì thôi.
3/ Trẻ
em bị cảm (đặc biêt các em nhỏ) chỉ nên đánh cảm bằng trứng. Trường hợp
các em được vài tháng, nếu sợ bỏng da, có thể đánh cảm bên ngoài áo cũng
được. Nhưng nếu bọc trứng trong một khăn dầy vừa đủ sẽ không sao.
4/ Cũng
có thể để nguyên vỏ trứng, để có nhiều sức nóng hơn, nhưng phải dùng
loại khăn rửa mặt hơi dầy, để khỏi bị vỏ trứng làm xước da.
5/ Đánh
cảm bằng trứng hơi tanh. Nhưng sau đó không được tắm. Chỉ nên dùng
lotion hay chút dầu thơm pha chút nước nóng, nhúng khăn lau sơ người
thôi.
6/ Đặc
biệt trường hợp số 15 và khi bị thương hàn, tức cảm lạnh ngấm tới xương,
thì phải đánh cảm bằng trứng và đồng bạc (vì cạo gió, bấm huyệt thoa
bóp chỉ bớt chứ không khỏi).
7/ Để
tẩy đồng bạc bị đen, thì lấy một mảnh giấy bạc bỏ trong một cái bát, bỏ
đồng bạc vào rồi đổ nước đang sôi lên, đồng bạc sẽ trắng trở lại ngay.
8/ Cách mua hay đặt đồng bạc đánh cảm:
- Ai có
thân nhân nhân ở Việt Nam có thể nhờ họ đặt cho mươi đồng bạc đánh cảm
tại các tiệm bán vàng bạc (mỗi đồng khoảng 5-10 US$ làm hình bầu dục
theo hình trái trứng là tiện nhất, vừa dùng để đánh cảm vừa dùng để cạo
gió rất tốt)
- Dễ
nhất là vào Internet để mua và trả qua credit card ngay tại Mỹ. Họ sẽ
gửi tới tận nhà. Mấy gia đình chung nhau, vì mỗi sét có 20 đồng 1 dollar
lớn và dầy. Đồng 1 dollar lớn này có thể đánh được 2-3 trứng mới đen
hết đồng bạc.
Silver Rounds Medaillon ** 999 Pure Silver One Ounce
htttp://www.goldmastersusa.com/silvercoins.asp
6)
Giác, lẩy (thường phức tạp hơn, vì cần có bộ đồ nghề và không công hiệu
bằng các cách kể trên, vì chỉ hạn chế vào một số nơi có bắp thịt).
- Giác bằng alcool hay rượu mạnh, nếu không khéo có thể bị bỏng da.
- Giác bằng hơi tránh được ngy hiểm này, nhưng phải có bộ đồ nghề.
- Nếu biết lẩy có thể nặn máu bầm ra, nhưng phải cẩn thận để không bị nhiễm trùng.
7) Phòng bệnh hơn chữa bệnh
Vì cảm lạnh có thể gây ra các hậu qủa nguy hại tới các cơ phận trong người như thế nên chúng ta phải cẩn thận.
1/ Luôn mặc ấm áp khi đi làm hay đi lễ ban sáng và về nhà lúc chiếu tối.
2/ Đầu đội mũ, trùm khăn.
3/ Giữ hai vai, vùng thận và chân ấm (đi vớ, cả khi ở trong nhà).
4/ Khi có các triệu chứng kể trên, cứ áp dụng mấy cách chữa bệnh trên đây của ông bà cha mẹ, trước khi đi khám bác sĩ.
Trong
các năm qua tôi đã từng chữa bệnh cho hằng trăm người và đoán bệnh ít
khi sai. Thí dụ một người bị tiêu chảy suốt 3 năm đi khám bác sĩ tại
nhiều nhà thương khác nhau và uống bao nhiêu thuốc nhưng không khỏi. Các
bác sĩ không tìm ra lý do. Sau khi cạo gió bụng, lưng và ngực, bệnh
tiêu chảy dứt ngay. Một người khác ăn lương tàn tật 2 năm vì không thể
giơ hai tay lên được và đau nhức không thể lái xe được. Đi khám tại
nhiều nhà thương nhưng các bác sĩ không biết bệnh gì, chỉ cho uống thuốc
giảm đau và đoán là thần kinh bị hư nên đề nghị mổ. Sau khi cạo gió hai
cánh tay và lưng xong là hết đau nhức và hai tay cử động bình thường
ngay lập tức. Một người khác nữa bị đau đầu gối 3 tháng, đi khám các bác
sĩ, chiếu điện nhiều lần cũng như uống nhiều thứ thuốc, mà không hết
đau nhức. Bác sĩ nói thần kinh bị hư, phải mổ. Cạo gió mấy phút là hết
đau nhức ngay.
Thế mới
biết rất nhiều trường hợp đau nhức là do cảm lạnh. Vì vậy trước khi đi
bác sĩ hay vào nhà thương, chúng ta nên áp dụng cách chữa bênh của ông
bà cha mẹ, vừa dễ dàng, vừa rẻ tiền lại rất khoa học và công hiệu tức
khắc, giúp giữ gìn sức khỏe và nhất là khỏi bị tàn tật oan.
Dầu dừa
Cây dừa
là một món qùa tuyệt diệu của Trời, vừa là loại cây đa dụng vừa là cây
thuốc chữa được rất nhiều thứ bệnh. Từ bao ngàn năm nay các dân tộc sống
trong các vùng có cây dừa đều đã biết các công dụng của nó. Từ rễ cho
tới lá, không có gì trong cây dừa là vô dụng cả.
1. Tên khoa học
Tên
khoa học của dừa là “Coco nucifera”. Các người Tây Ban Nha thám hiểm đầu
tiên khi đến Châu Mỹ La Tinh thấy trái dừa có 3 mắt đen trên qủa dừa có
tóc giống đầu con khỉ, nên họ gọi nó là Coco nghĩa là “mặt khỉ”. Còn
“nucifera” có nghĩa là “đế đệm”.
Dừa
được mệnh danh là cây của sự sống, vì là một nguồn thực phẩm gồm thịt
cùi dừa, nước, sữa và dầu dừa cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho con
người thuộc mọi thế hệ khắp nơi trên trái đất này. Hầu như một phần ba
tổng số dân trên thế giới hiện sống tùy thuộc vào dừa như lượng thực
phẩm hay nguồn lợi kinh tế.
Cùi dừa
giầu chất sơ, vitamin và muối. Đặc biệt dầu dừa có khả năng chữa được
rất nhiều thứ bệnh và được các dân tộc Á châu và Thái Bình dương dùng
như thuốc cổ truyền. Dân chúng các đảo vùng Thái Bình Dương cho rằng dừa
chữa được mọi thứ bệnh, vì thế họ gọi nó là “cây sự sống”. Chỉ mới đây y
khoa tây âu tân tiến mới khám phá ra các công hiệu đa dạng của nó.
2. Đặc
biệt y khoa cổ truyền khắp nơi trên thế giới đã dùng dừa để chữa các thứ
bệnh như: áp xe, suyễn, hói đầu, sốt, cúm, sưng nướu răng, bệnh lậu,
kinh nguyệt đau đớn thất thường, bệnh vàng da, sạn thận, có chấy rận,
thiếu dinh dưỡng, buồn nôn, mụn nhọt, ghẻ lở, bệnh hoại huyết, nhiễm
trùng da, đau cổ họng, sưng, bệnh giang mai, đau nhức răng, ho lao, các
bệnh ung thư, đậu lào, ung nhọt, các chứng đau dạ đày, yếu nhược và các
vết thương.
3. Y
khoa tân hiện nay xác nhận các khả năng chữa bệnh của dừa. Các nghiên
cứu đăng trên các nguyệt san y khoa chứng minh cho thấy dầu dừa có thể
có các tác dụng hữu hiệu sau đây:
1) Giết các vi rút gây ra bệnh cúm, mụn rộp, bệnh sởi, viêm gan C, bệnh liệt kháng Sida hay AIDS, SARS và nhiều bệnh khác.
2) Giết
các vi trùng gậy ra bướu, nhiễm trùng cổ họng, nhiễm trùng đường tiểu,
các bệnh của nướu răng và miệng, viêm phổi, lậu và các thứ bệnh khác.
3) Giết các loại nấm và men gây ra bệnh candidosi, nấm tóc, bệnh da và các chứng nhiễm trùng khác.
4) Loại trừ hay giết chết chấy rận và các ký sinh trùng.
5) Cung cấp nguồn dưỡng nuôi năng lực nhanh chóng.
6) Gia tăng năng lực và sức kháng cự, cải tiến các cố gắng thể lý và thể duc.
7) Cải thiện việc tiêu hóa và hấp thụ các thức dinh dưỡng giữa vitamin, các khoáng chất và aminoaxít.
8) Cải thiện việc tiết chất insuline và sử dụng đường glucose trong máu.
9) Giảm sự mệt mỏi của tụy và các hệ thống phân hóa tố của thân thể.
10) Giảm các triệu chứng liên quan tới tuy tạng.
11) Giúp làm nhẹ bớt các triệu chứng và giảm các nguy cơ cho sức khỏe liên quan tới bệnh tiểu đường.
12) Giảm các vấn đề liên quan tới hiện tượng không hấp thụ và bướu sợi.
13) Cải thiện việc hấp thụ chất calcium và magnesium và hỗ trợ sự phát triển của xương và răng.
14) Giúp bảo vệ chống lại bệnh suy thoái xương.
15) Giúp giảm các triệu chứng liên quan tới bệnh viêm túi mật.
16) Giảm các triệu chứng của bệnh Crohn, ung thư ruột già và các bệnh lở loét bao tử.
17) Cải thiện việc tiêu hóa và hoạt động của đường ruột.
18) Giảm các đau rát của bệnh trĩ.
19) Giảm sưng.
20) Hỗ trợ việc chữa lành và sửa chữa các mô.
21) Trợ giúp hoạt động của hệ thống miễn nhiễm.
22) Giúp bảo vê thân thể khỏi các chứng ung thư vú, ung thư kết tràng và các loại ung thư khác.
23) Cải thiện cholesterol bằng cách giảm nguy cơ các bệnh về tim.
24) Bảo vệ các mạch máu khỏi bị hư hỏng gây ra bệnh thoái hóa mạch máu và chống các bệnh của tim.
25) Giúp phòng ngừa các bệnh của răng và sâu răng.
26) Hoạt động như một yếu tố chống ốc xi hóa và che chở.
27) Giúp bảo vệ cơ phận khỏi các hư hại gây lão hóa sớm và các bệnh thoái hóa.
28) Dầu dừa không giảm thiểu các tích trữ chống ốc xi hóa như các loại dầu khác thường làm.
29) Cải thiện việc sử dụng các axít béo chính yếu và bảo vệ chúng khỏi bị ốc xi hóa.
30) Giúp giảm các triệu chứng liên quan tới tình trạng yếu mệt kinh niên.
31) Giảm các triệu chứng sưng tuyến tiền liệt.
32) Giảm các khủng hoảng động kinh.
33) Giúp che chở chống lai các bệnh thận và nhiễm trùng bọng đái.
34) Đánh tan sạn thận.
35) Giúp phòng ngừa các loại bệnh gan.
36) Dầu dừa có ít calori hơn mọi thứ dầu khác.
37) Trợ lực hoạt động của tuyến giáp trạng.
38)
Giúp giảm kí và gia tăng lượng biến thải. 39) Dầu dừa được cơ thể sử
dụng để sản xuất năng lực và ghi nhớ như chất béo giống các chất béo
thực phẩm khác.
40) Giúp phòng ngừa bệnh mập phì và qúa kí.
41) Thoa dầu dừa giúp tạo thành một hàng rào hóa chất trên da chống nhiễm trùng.
42) Giảm các triệu chứng liên quan tới bệnh vảy nến, lở chốc, và viêm da.
43) Hỗ trợ sự quân bình hóa học tự nhiên của da.
44) Làm mềm da và giúp không bị khô da hay da có vảy.
45) Phòng ngừa các vết nhăn, làm cho da giãn xả và xóa các dấu vết của tuổi tác.
46) Làm cho tóc được lành mạnh và duy trì mầu da tốt.
47) Che chở chống lại các hậu qủa nguy hại của các tia phóng xạ tử ngoại của mặt trời.
48) Giúp kiểm soát gàu trên đầu.
49) Dầu dừa không sinh ra các chất độc như các loại dầu khác, khi được đun nóng ở nhiệt độ bình thường.
50) Dầu dừa không gây ra các phản ứng phụ nguy hiểm và có hại.
51) Dầu dừa hoàn toàn không có độc tố đối với con người.
Trước
đây người ta có thành kiến cho rằng dầu dừa không tốt cho sức khỏe vì
chứa nhiều chất béo bão hòa. Nhưng ngày nay, các nghiên cứu của tiến sĩ
Bruce Fife và Trung Tâm Nghiên Cứu Dầu Dừa của ông bên Hoa Kỳ đã chứng
minh cho thấy rằng các chất béo trong dầu dừa là duy nhất và khác với
chất béo của các thứ dầu khác, vì chúng có khả năng giữ gìn sức khỏe duy
nhất và được nhìn nhận như một thực phẩm dinh dưỡng rất tốt. Dầu dừa
được miêu tả như “thứ dầu lành mạnh nhất trên trái đất này”. Lý do là vì
các axít béo bão hòa trong dầu dừa thuộc chuỗi trung bình (MCFA), trong
khi các axít bão hòa hay không bão hòa của thịt, trứng và các thảo mộc
bao gồm đa số tất cả các loại dầu thảo mộc khác, đều thuộc chuỗi dài
(LCFA). Đại đa số các chất béo và dầu chúng ta thường sử dụng, dù có bão
hòa hay không bão hòa, đều thuộc chuỗi dài (LCFA). Các axít béo thuộc
chuỗi trung bình, còn được biết như là triglicidi chuỗi trung bình,
không gây ra hậu qủa tiêu cực trên các mức độ cholesterol và giúp chống
lại các thứ bệnh tim. Chính chuỗi trung bình của dầu dừa khiến cho nó là
thứ dầu đặc biệt và đem lại nhiều hiệu qủa chữa lành tuyệt vời.
Bác sĩ
Mehmet Oz, một trong các chuyên viên giải phẫu tim mạch nổi tiếng nhất
Hoa Kỳ, tuyên bố trên các chương trình truyền hình rằng dầu dừa rất tốt
cho tim mạch. Hằng năm bác sĩ Oz thực hiện 400 cuộc giải phẫu tim, và
hiện nay ông thường xuyên xuất hiện trên chương trình “Dr. Oz Talk
Show”, để trình bầy các vấn đề sức khỏe, đặc biệt liên quan tới tim
mạch. Các chứng từ, sách vở, tài liệu của các bác sĩ Mỹ nổi tiếng, cũng
như hàng trăm ngàn chứng từ khỏi bệnh khắp nơi trên thế giới chứng minh
cho chúng ta thấy một cách hùng hồn rằng cây dừa qủa xứng danh là “cây
sự sống”.
4. Chiến dịch súc miệng, ăn uống và nấu bếp bằng dầu dừa
Từ hai
năm nay chúng tôi đã cùng một số thân hữu phát động phong trào súc
miệng, ăn và nấu nướng bằng dầu dừa, tại Việt Nam và hải ngoại. Chiến
dịch đã đạt nhiều kết qủa rất tốt, đối với các bệnh nhân Aids, hay Sida,
phong cùi, ung thư, vẩy nến, tiểu đường, áp huyết cao, các bệnh tim
mạch vv... Muốn biết chi tiết các tài liệu, cách mua dầu dừa và các
chứng từ vv... có thể vào Website tinvuichualanh.net hay
tinvuichualanh.com.
Sách
của tiến sĩ Bruce Fife, giám đốc Trung tâm nghiên cứu dầu dừa tại Hoa
Kỳ, chứng minh cho thấy 50% dầu dừa là axít lauric. Khi vào trong cơ thể
chúng chia thành 40 loại riêng rẽ, và đều là các thuốc trụ sinh cưc
mạnh. Chính vì thế dầu dừa tiêu diệt được mọi thứ vi khuẩn và chữa được
rất nhiều thứ bệnh nan y.
1/ Sáng
ngủ dậy nhai và súc miệng với một thìa dầu dừa trong vòng 15-20 phút
rồi nhổ đi. Sau đó súc miệng bằng nước muối và nước lạnh, rồi nạo lưỡi
cho sạch. Hàng trăm triệu vi khuẩn trong miệng sẽ theo nước miếng và dầu
dừa ra ngoài. Nếu nhai và súc miệng bằng d?u dừa được ngày 3 lần thì
rất tốt, vì đó là cách diệt các vi khuẩn rất hữu hiệu.
2/ Ăn mỗi ngày 3 muỗng dầu dừa. Vì dầu dừa là thực phẩm bổ dưỡng nên rất tốt cho sức khỏe.
3/ Nên
bỏ hết các thứ dầu khác để chỉ nấu ăn bằng dầu dừa, sẽ cải tiến sức khỏe
cho cả gia đình. Vì dầu dừa là loại dầu duy nhất không bị ốc xi hóa, có
khả năng đánh tan cholesterol xấu và duy trì lượng cholesterol tốt cần
thiết cho cơ thể con người, nên khi chiên xào bằng dầu dừa sẽ không sợ
bị cholesterol hay mập phì, và cũng không sợ chất béo tồn đọng đóng vào
vách các mạch máu. Trái lại, thức ăn nấu với dầu dừa rất thơm ngon. Đặc
biệt khi chiên chả giò bằng dầu dừa, chả giò vừa thơm ngon vừa giữ được
độ giòn rất lâu, và trong nhà không có nhiều mùi hôi như khi chiên với
các thừ dầu khác. Ngoài ra dầu dừa đã chiên có thể dùng thêm 2 lần nữa.
Muốn
biết thêm các chi tiết về dầu dừa và chứng từ các vụ khỏi bệnh tại Việt
Nam bạn có thể vào Website: tinvuichualanh.net hay tinvuichualanh.com
của Gia Đình Dầu Dừa.
Cây neem
Neem là
một cây thuốc nổi tiếng đã được dân tộc Ấn Độ sử dụng từ 4.500 năm nay
và có chỗ đứng quan trọng trong sách Ayurveda là sách thuốc truyền thống
của Ấn Độ. Hai cuốn sách đầu tiên của Ayurveda, thuộc các thế kỷ IV-II
trước công nguyên, gồm 100 bài nghiên cứu về cây Neem. Thời cổ Ấn Độ gọi
nó là “vị thuốc chữa lành tất cả các bệnh tật”. Trong tiếng Kiswahili
của Phi châu Neem được gọi là “cây chữa trị 40 loại bệnh: mwarubaini”.
Năm
1992 Học Viện quốc gia Hoa Kỳ cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Neem: một
cây giải quyết cho các vấn đề toàn cầu”, khiến cho neem bắt đầu được
biết tới. Từ đó cho tới nay đã có hơn 500 bản báo cáo nghiên cứu của các
chuyên viên hai trường đại học Bangalore và Baltimore được công bố.
Ngày nay mọi người đều coi cây Neem như là một kỳ quan, một cây thuốc
tuyệt vời, một món qùa của Tạo Hóa.
Mỗi
ngày người ấn độ thường ăn 5-10 lá Neem hay hạt neem để củng cố hệ thống
miễn nhiễm, phòng bệnh và chữa bệnh. Họ cũng tắm bằng nước lá neem để
chữa các thứ bệnh ngoài da, hoặc uống dầu neem để chữa nhiều thứ bệnh
khác nhau. Lá và vỏ neem rất an toàn để ăn hay uống, trong các liều
lượng thích hợp. Nhưng dầu neem khó uống, vì có mùi nồng, có thể gây
buồn nôn, và khi uống qúa mức có thể hại gan. Cũng có nhiều người ăn rất
nhiều lá neem và thường uống dầu neem mà không gặp phản ứng bất lợi
nào.
Để trị
bệnh, mỗi ngày uống 2 ly trà neem trong vòng 1 tuần, hay cho tới khi
khỏi bệnh. Sau đó, uống mỗi ngày 1 ly trong vòng hai tuần. Uống lâu qúa
có thể ảnh hưởng trên gan. Trẻ em dưới 12 tuổi và phụ nữ có thai hay
đang cho con bú không nên uống. Nhưng thiết nghĩ nếu cần, thì uống với
liều lượng hạn chế. Bởi nếu bị bệnh mà phải đợi tới 12 tuổi mới được
uống, thì e rằng qúa trễ và lúc đó cũng không cần nữa!
Từ
nhiều năm qua cây Neem Ấn Độ được trồng nhiều tại tỉnh Ninh Thuận, với
chủ ý giữ gìn đất đai, nhưng ít người biết đó là cây thuốc có khả năng
chữa bá bệnh. Vì lá Neem củng cố cho hệ miễn nhiễm và đánh gục được mọi
thứ virút, nó chữa được nhiều bệnh nan y. Do đó, mỗi ngày nên uống 2 ly
trà lá Neem. Nếu là bột thì mỗi ly 1/4 muỗng cà phê bột neem.
Lá Neem có các công hiệu chống lại các tật bệnh sau đây:
1. Điều tiết hệ miễn nhiễm: gia tăng sức đề kháng và sản xuất kháng thể.
2. Chống và ngăn ngừa mọi thứ bướu và ung thư.
3. Chống viêm não, viêm da, sốt rét.
4. Chữa bệnh AIDS.
5. Chữa các bệnh tim mạch: áp huyết cao, đông máu, cholesterol, loạn nhịp tim đâp, tim đập nhanh.
6. Chữa bệnh tiểu đường.
7. Chữa mệt mỏi kinh niên.
8. Chữa bệnh lao, viêm phế quản hay cuống phổi.
9. Chữa rối loạn máu: tuần hoàn kém, ngộ độc máu, và các bệnh của thận.
10. Chữa rối loạn tiêu hóa: ợ nóng, khó tiêu, loét dạ dầy, viêm dạ dầy, tá tràng và trĩ.
11. Chữa dị ứng, hơi thở hôi, khó chịu do rượu.
12.
Chữa các bệnh về răng, lợi: súc miệng bằng trà neem, chà răng bằng nhánh
neem non, dùng bột lá neem thoa lên nướu răng có mủ.
13. Chữa rối loạn thần kinh: lo lắng, động kinh và phát ban.
14.
Viêm màng kết hay viêm kết mạc, mắt đỏ ngứa do vi khuẩn: nhỏ vài giọt
nước trà neem nguội vào mắt; ban đêm thoa chung quanh mắt và mi mắt kem
tự nhiên có pha chút dầu neem.
15. Chữa căng thẳng, mất ngủ, hút thuốc.
16.
Chống các vi khuẩn Staphylococus, Aureus, Streptococus pyogenes,
Cornebacterium, E. Coli và Typhona salmonella, là những thứ vi khuẩn gây
ra bệnh viêm màng não, viêm bàng quang, viêm họng, ngộ độc máu, thương
hàn, và ngộ độc thực phẩm.
17.
Chống virút của các bệnh thủy đậu, giời leo, lở loét, viêm gan siêu vi,
cảm cúm, bằng cách bao vây và ngăn chặn không cho chúng hoạt động để lây
nhiễm các tế bào.
18.
Chữa các bệnh lây qua đường tình dục: lậu, giang mai, mụn rộp bộ phận
sinh dục, mụn âm đạo, nấm candida và nhiễm trùng đường tiết niệu, bệnh
AIDS, tăng cường phản ứng miễn dịch của người nhiễm HIV.
19. Chữa vàng da và viêm gan, tẩy độc tố trong gan.
20. Chữa ngứa, giảm nhiệt, bồi bổ, dễ tiêu và điều khiển các chuyển động của bụng.
21. Chống viêm khớp xương.
22. Chống các loại nấm ở bàn chân, bệnh ghẻ, nấm âm đạo và nấm miệng ở háng.
23. Chống ký sinh trùng: chấy rận, bọ ve gây ngứa ghẻ, giun, sán, lải.
24. Chữa bệnh phong và bệnh bạch bì.
25. Chữa bệnh dị ứng.
26. Chữa ho khan: uống trà lá neem pha với mật ong ngày 2 lần.
27. Trà neem pha từ lá và hạt trưởng thành chữa các bệnh của bàng quang, thận và tuyến tiệt liệt.
28. Đắp trà lá neem đậm chữa bong gân, vết bầm tím và sưng hạch.
29. Nước trà neem đậm dùng để rửa các vết thương và thoa lên chỗ bị nấm, sởi, trầy da.
30. Lá neem ngâm trong nước sôi đắp lên các ung nhọt, bong gân, vết thương nhiễm trùng, vết cắn, vết chích.
31. Lá neem làm sạch không khí và môi trường.
32. Lá neem để trong tủ sách, tủ ly chén, trong gạo giúp ngừa mối mọt.
Muốn
biết thêm các chi tiết liên quan tới lá Neem và chứng từ các vụ khỏi
bệnh tại Việt Nam bạn có thể vào địa chỉ: tinvuichualanh.net hay
tinvuichualanh.com của Gia Đình Neem.
Cây Aloe
Aloe là
một cây thuốc có rất nhiều khả năng chữa bệnh. Từ Aloe bắt nguồn từ
tiếng Arập có nghĩa là “đắng và trong suốt”, ám chỉ vị đắng của nước và
chất thạch trong của nó. Tiếng Việt gọi là Long Tu, Nha Đam, hay Lô Hội.
Aloe
thuộc giống Liliace, bao gồm 350 loại khác nhau trên thế giới. Các loại
Aloe thường được dùng để chữa bệnh là: Aloe Vera, Aloe đảo Socotra, Aloe
vùng Cap bên Nam Phi, Aloe Saponaria, Aloe Sinensis, Aloe Arborescens,
Aloe vùng Natale và Aloe Ferox. Tuy nhiên ba loại thông dụng nhất là:
1) Aloe arborescens: lá nhỏ, cong và có gai nhọn;
2) Aloe ferox: lá rất to và sần sùi;
3) Aloe vera.
Việc
dùng lá Aloe để chữa bệnh đã được nhiều dân tộc trên thế giới biết tới
từ thời rất xa xưa, và khá phổ biến vì các khả năng trị liệu của nó.
Từ lá
Aloe người ta lấy ra hai thứ: nước và thạch. Xay lá Aloe chúng ta có
nước cốt Aloe, rất giầu các loại vitamin A,B,C,D,E các chất muối đạm,
các chất Antrachinoni, đặc biệt là Aloina, tức các phân tử hoạt động xổ,
kích thích các co thắt của ruột và các chất khác. Nước Aloe có thể để
khô thành một loại nhựa mầu gần như đen và có lượng Aloina tích tụ, làm
thành loại thuốc xổ rất mạnh, phải cẩn thận khi dùng, mỗi ngày không qúa
0,1-0,5 gram, không được dùng cho các trẻ em và những người yếu sức, vì
có thể gây ra tiêu chảy, làm mất các loại muối và chất lỏng của cơ thể.
Thạch
Aloe là phần bên trong của lá, rất giầu các chất nhớt (mucillagini) và
chất đường đa dạng (polisaccaridi), các chất men, vitamin và khoáng
chất.
1) Các tác dụng chữa bệnh
- Nước
cốt cũng như thạch Aloe đều có tác dụng chống sưng trên tất cả các cơ,
các chất nhờn và đặc biệt là trên da (chẳng hạn các vết phỏng, sưng đỏ,
lở chốc vv...).
- Chữa lành các vết thương và tái tạo tế bào trong các trường hợp bị rách hay có các vết thương.
- Giảm nguy cơ bị nhiễm trùng.
- Bảo vệ hệ thống hơi đường ruột, vì sửa chữa các cơ phận nội tạng bị ung bướu, bỏng, viêm.
- Hút các chất độc, ngăn chặn hoạt động của chúng và thải chúng ra khỏi thân thể.
- Chống các vi trùng, vi khuẩn, viêm bộ phận sinh dục.
- Chữa các chứng đỏ mắt, đau màng mắt (viêm kết mạc), kéo màng mắt.
- Chữa các chứng viêm đường hô hấp.
- Chữa đau cổ và cuống họng.
Các khả
năng tái tạo tế bào của lá Aloe được kỹ nghệ mỹ phẩm khai thác để sản
xuất mỹ phẩm như các loại kem thoa mặt, săn sóc da vv...
Nước lá Aloe mau bị ốc xi hóa nên phải dùng ngay sau khi xay, và có thể giữ trong tủ lạnh 1-2 ngày. Không nên để lâu hơn.
2) Hồi
thập niên 1980 cha Romano Zago, dòng Phanxicô Quản Thủ Thánh Địa, người
Brasil gốc Italia, đã dùng lá Aloe để chế thành xirô và chữa cho nhiều
người khỏi bệnh ung thư, đã bị các bác sĩ chê. Đây là bài thuốc cha đã
học được từ các thổ dân Brasil. Vì bên Brasil cây Aloe mọc khắp nơi,
ngay cả bên vệ đường.
3) Toa
thuốc chữa bệnh ung thư của cha Romano Zago rất đơn giản. Nó gồm hai lá
lớn (bằng ba, bốn ngón tay) bay ba lá nhỏ (bằng hai, ba ngón tay) cây
Aloe Vera (350 gr), nửa ký mật ong và bốn muỗng rượu mạnh.
Sau khi
rửa sạch và gọt bỏ hai cạnh có gai của lá Aloe Vera, bỏ chung tất cả
vào máy xay sinh tố, xay nhuyễn ra thành một loại xirô. Trước khi dùng
thì lắc đều lên. Mỗi ngày uống ba lần, 15 phút trước khi ăn sáng, ăn
trưa và ăn tối, mỗi lần một muỗng canh xirô Aloe Vera. Mật ong là loại
thực phẩm cơ thể con người hấp thụ dễ dàng. Chất rượu mạnh khiến cho
mạch máu nở lớn để cho mật ong pha lẫn với Aloe tới với mọi tế bào trong
toàn thân thể, vừa nuôi dưỡng vừa chữa lành mọi vết thương và lọc sạch
máu.
Bình
thường việc chữa bệnh kéo dài 10 ngày. Sau 10 ngày nên đi khám nghiệm
xem bệnh tình ra sao và so sánh kết qủa trước và sau khi điều trị, để
nếu cần thì uống tiếp thêm 10, 20 hay 30 ngày nữa cho tới khi hoàn toàn
khỏi bệnh. Thường bệnh nhân cảm thấy khá ngay sau đó. Nhưng đây chưa
phải là dấu chỉ khỏi bệnh. Cần phải đi bác sĩ khám nghiệm để biết bệnh
tình tiến thoái ra sao. Cần phải kiên trì và nhẫn nại. Nhưng hiệu qủa
của cây Aloe Vera rất chắc chắn và mạnh mẽ, chống lại bất cứ loai ung
thư nào: từ ung thư da, cho tới ung thư cổ họng, ung thư vú, ung thư tử
cung, ung thư duyến tiền liệt, ung thư óc, ung thư dạ dầy, ung thư ruột
vv....và cả ung thư máu nữa.
4) Các chất thuốc của cây Aloe
Cây
Aloe Vera hay Aloe Barbadensis là một loại dứa cảnh, lá thon hai bên có
gai nhọn, dài trung bình từ 40 tới 50 cm, cây có chiều cao từ 60 tới 90
cm. Bên trong lớp vỏ xanh là chất thạch đắng. Theo bảng phân chất của
linh mục bác sĩ Grandi, cũng thuộc Dòng Phanxicô, làm việc tại “Trung
tâm nghiên cứu La Torre” tỉnh Torino, trung bắc Italia, cây Aloe Vera
gồm các chất sau đây:
1/ Mười ba chất khác nhau thuộc loại Lignine, Saponine và Antrachinoni chứa các chất trụ sinh chống lại các vi khuẩn:
- Aloina: catartico ed emetico
- Barbaloina (glucoside barbaloico): antibiotico e catartico
- Isobarbaloina: analgesico ed antibiotico
-Antranolo
- Antracene
- Antracene
- Acido aleoitico: antibiotico
- Emodine d'aloe: battericida e lassativo
- Acido cinnamico: detergente, germida e unghicida
- Estere dell'acido cinnamico: calmante
- Olio eteriale o etero: analgesico ed anestetico
- Acido crisofanico: funghicida
- Aloe ulcine: inibitore della secrezione gastrica per reazione con l'istamina
- Resestanolo.
2/ Tám
loại Vitamine cần thiết cho sức lớn mạnh của các tế bào, dưỡng nuôi thân
thể, chế tạo ra máu, điều hòa cơ thể và chữa lành các vết thương:
- Vitamine A (carotene).
- B1 (Tiamina: cần thiết cho sức lớn mạnh của các tế bào và sản xuất năng
lượng).
- B2 (niacina e ribiflavina): tác động chung với vit. B6 để chế tạo máu.
- Niacinamide (niacine): giúp điều hòa hệ thống biến sinh thái của thân thể.
- B6 (piridossina).
- B12 (cianocobalamina): tái tạo sức mạnh hay dưỡng nuôi cơ thể
- C (acido ascorbico: cùng với vit. E chống lại sự nhiễm trùng và giúp vết thương thành thẹo.
- E (Tocoferolo): công hiệu giống như vit. C.
- Colline (vitamine thuộc loại B: giúp hệ thống biến sinh thái của cơ thể.
- và sau cùng là vit. M (acido folico) trợ giúp việc chế tạo máu.
3/ Cây Aloe Vera chứa hơn 20 thứ khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Sau đây là những loại chính:
- Calcio (cùng với chất fosforo tạo thành xương).
- Fosforo.
- Potassio.
- Ferro (chất sắt trong máu giúp giữ dưỡng khí).
- Sodio.
- Cloro.
- Manganèse (cùng với chất Magnesio giúp các bắp thịt và hệ thống thần kinh hoạt động).
- Cromo (giúp sinh hoạt của các chất men và chất át xít béo).
- Zinco (kích thích sinh hoạt của chất proteine trong việc làm lành vết thương).
4/ Saccaridi đơn và đa dạng:
- Cellulosa
- Glucosio
- Mannosio
- Aldoso
- Acido uronico
- Lipasi
- Aninasi
- L-ranoso
- Carrisyn (là chất mới được khám phá ra có nhiệm vụ củng cố hệ thống kháng tố.
5/ Aminoacidi chính yếu:
- Isoleucina
- Leucina
- Lisina
- Metionina
- Fenilalanina
- Tionina
- Valina.
6/ Aminoacidi phụ thuộc:
- Acido aspatico
- Acido glutammico
- Alanina
- Arginina
- Metiocistina
- Glicina
- Istidina
- Idrossiprolina
- Prolina
- Serina
- Tiroxina
7/ Các chất men: các chất men ốc xít của cây Aloe hút các yếu tố nòng cốt.
- Fosfatasi acida
- Amilasi
- Bradichinasi hay Bradichininasi (giảm đau, chống sưng (viêm), kích thích bảo vệ kháng tố)
- Catalasi (ngăn chặn không cho chất H2O2 đọng trong các tế bào)
- Cellulasi (giúp chất Cellulosa tiêu hóa)
- Lipasi (giúp tiêu hóa)
- Nucleotidasi
- Fosfatasi alcalina
- Proteolitiasi hay Proteasi (giúp các yếu tố tạo thành chất proteine tantrong nước)
- Acido salicilico
- Acido crisofanico
- Oli volatili.
5) Các vụ khỏi bệnh
Chính
cha Romano Zago đã kể lại vài vụ khỏi bệnh nhờ siro Aloe của cha trong
nguyệt san “Thánh Địa” số ra cho hai tháng 11-12 năm 1993.
Trong
số các người được cha giúp chữa khỏi bệnh năm 1987 có một cụ già tại
Bếtlêhem bị ung thư tuyến tiền liệt vào thời cuối; một phụ nữ bạn của nữ
tu Silvana y tá của nhà dòng; một ông thư ký của trường học bị ung thư
cổ họng nói không ra tiếng; và bé Geraldito người Argentina 5 tuổi, bị
bênh ung thư máu. Geraldito đã được cấy tủy của anh bên Barcelona Tây
Ban Nha, nhưng bệnh tái phát và các bác sĩ truyệt vọng. Cha mẹ của bé
đưa hai con đi hành hương Thánh Địa. Chính tại đây họ gặp cha Romano.
Cha đề nghị gia đình ở lại 1 tháng để chữa với Siro Aloe do cha pha chế.
Chỉ 1 tháng sau bé Geraldito trở lại bình thường, nhưng cha Romano đề
nghị ở thêm. Và hai tuần sau đó khi đi khám nghiệm các bác sĩ cho biết
Geraldito đã hoàn toàn khỏi bệnh ung thư máu.
6) Cách pha chế
1/ Cho những người bị bệnh ung thư, đặc biệt khi ít ăn uống hay không hấp thụ được thức ăn:
- 350 gr hay 1 kg lá cây Aloe Vera, cắt vứt gai, rửa sạch, thái ra bỏ vào máy xay sinh tố xay nhuyễn (không bỏ nước).
- Pha với 1/2 kg mật ong.
- Thêm vài muỗng rượu mạnh để giúp thuốc vào máu nhanh hơn.
- Mỗi ngày uống 3 lần.
- Mỗi lần từ 2-4 muỗng ăn phở.
- 15 phút trước khi ăn sáng, ăn trưa và ăn tối.
** Tùy bệnh nặng nhẹ: càng nặng uống được càng nhiều càng tốt, đặc biệt trong những trường hợp các bác sĩ đã đầu hàng.
Những ai không chịu được rượu, thì không pha rượu.
2/ Những người bị bệnh ung thư mà còn ăn uống bình thường được hay những người bị bệnh tiểu đường:
- Chỉ uống hay ăn lá cây Aloe Vera mà không pha mật ong.
- Mỗi ngày 3 lần.
- Mỗi lần từ 2-4 muỗng ăn phở.
- 15 phút trước khi ăn sáng, ăn trưa và ăn tối.
- Nếu là loại lá lớn mọc thẳng, to bằng bằng bàn tay hay hơn và dài, mỗi ngày ăn 1 lá có thể chia làm ba lần.
- Nếu là loại bằng 2 ngón tay hơi cong có đốm trắng hay xanh: mỗi ngày có thể ăn 2-3 lá
- Nếu là loại có gai nhọn dài và cong (long tu: râu rồng là loại tốt nhất và rất đắng): mỗi ngày có thể ăn 2-3 lá
** Tuy nhiên số lượng nhiều ít, tùy theo bệnh nặng nhẹ và khả năng hấp thụ của từng người.
Chú ý:
Lá cây Aloe Vera rất nhuận tràng (rất tốt để chữa bệnh táo bón, khó
tiêu), cẩn thận không nên uống hay ăn nhiều qúa để tránh tiêu chảy. Aloe
Vera là loại thuốc sổ tự nhiên rất tốt, giúp sổ cho hết mọi cặn bã và
chất độc trong người ra ngoài.
- Aloe
Vera chữa bệnh tiểu đường (nếu hợp), các vết phỏng, vết thương, vết mổ
và các vết ong và côn trung cắn vv... rất công hiệu. Thoa vào là mát,
êm, dễ chịu và hết đau nhức ngay.
7) Vào
thập niêm 1990 tôi đã phổ biến bài thuốc này trong mục Gương Chứng Nhân
của chương trình Việt Ngữ đài phát thanh Vaticăng. Sau đó có hai nữ
thính giả bị bệnh ung thư ở Hà Tĩnh gửi thư xin. Tôi đã xay lá cây Aloe
Vera gửi kèm với bài thuốc về cho hai chị, đồng thời cho hai chị biết là
ở Việt Nam có nhiều cây Aloe, vẫn được bán ngoài chợ 4-5 ngàn đồng một
ký, để nấu chè ăn cho mát, gọi là cây Nha Đam, Long Tu hay Lô Hội. Nhưng
ít người biết đó là cây thuốc chữa được rất nhiều bệnh, trong đó có các
chứng ung thư.
- Cũng
trong cùng thời kỳ này tôi có một ông bác họ ở Lâm Đồng cũng bị ung thư
gan, bác sĩ đã chê, cho về nhà chờ chết. Khi biết tin, tôi cũng đã gửi
bài thuốc về. Bác đã ăn và uống cây Nha Đam trong vòng 3 tháng. Sau đó
đi khám bác sĩ và chiếu điện, bác sĩ ngạc nhiên thấy bác đã khỏi bệnh,
nên hỏi uống thứ thuốc gì mà hay vậy. Bác tôi khoe bác sĩ đó là bài
thuốc Aloe Vera một người cháu ở Roma gửi về. Từ đó ông phổ biến bài
thuốc từ bắc chí nam và nhờ đó đã có rất nhiều người khỏi bệnh. Nhưng
giá Nha Đam vọt tăng từ 4.000 lên 40.000 hay 50.000 ngàn đồng một kí!
Bài thuốc đã được nhiều người lấy lại và thêm bớt với ghi chú là trẻ em dưới 13 tuổi và phụ nữ mang thai không nên dùng.
Rất họa hiếm mới có người dị ứng với Aloe: một trên một triệu người.
Thực
ra, khi đã pha với mật ong, nó trở thành một loại thuốc xirô bổ dưỡng và
trị bệnh rất tốt cho cả trẻ em và phụ nữ mang thai và thai nhi. Dĩ
nhiên là phải chú ý dùng với liều lượng thích hợp với lứa tuổi, cũng như
tình trạng thai nghén. Bởi nếu phải đợi tới 13 tuổi mới được dùng, thì
bé Geraldito 5 tuổi đã chết từ lâu, chứ không có chuyện để cha Romano kể
lại cho chúng ta nghe trên nguyệt san Thánh Địa!
Rượu tỏi
Vào
thập niên 1960-1970 dưới thời của tổng thống Gamal Abdel Nasser, tổ chức
Sức Khỏe Thế Giới, viết tắt là OMS, đã gửi hai toán bác sĩ sang Ai Cập
để tìm hiểu lý do tại sao người dân Ai Cập nghèo, ăn uống kham khổ,
nhưng lại ít khi bị bệnh. Các bác sĩ đã khám phá ra rằng người Ai Cập
uống rượu tỏi: gia đình nào cũng có một chai rượu tỏi, là thuốc có từ
thời các Pharaông, tức cách đây năm sáu ngàn năm.
1. Khi
phân tích, người ta tìm thấy trong tỏi có các chất: Allicina, Alliina,
Gamma Glutamincysteine và Thiosulinate, là các loại trụ sinh chống các
vi khuẩn rất hữu hiệu.
Ngoài ra trong tỏi còn có các chất như:
- proteine,
- carboidrati,
- chất xơ,
- các chất béo bão hòa, không bão hòa dạng đơn, bão hòa đa dạng,
- nước,
- vitamin B1, B2, B3, B5, B6, B9, C, E,
- vôi,
- sắt,
- phốt phát,
- mage,
- mangan,
- bồ tạt,
- đồng,
- selen,
- sode
- kẽm.
Với các chất trụ sinh, các thứ vitamin và khoáng chất nói trên, tỏi có thể chữa nhiều chứng bệnh của các
- bộ máy hô hấp,
- tuần hoàn,
- tiêu hóa,
- chống cảm cúm,
- lọc máu khỏi các chất mỡ,
- chống cholesterol và áp huyết cao,
- trợ tim,
- giúp máu huyết lưu thông đều hòa,
- giúp tiêu tiểu dễ dàng đều đặn,
- chống ốc xi hóa,
- chống ung thư,
- diệt giun sâu trong ruột,
- chống sưng mạch máu,
- chống thấp khớp,
- khiến cho thân thể khỏe mạnh, da dẻ hồng hào.
Từ khi biết bài thuốc rượu tỏi từ năm 1991 tới nay tôi không bao giờ bị cúm trong mùa đông.
2. Cách pha chế
- 1/2 kg tỏi bóc vỏ, thái lát mỏng hay bỏ vào xay.
- Pha với 1 lít rượu đế hoăc rượu mạnh.
- Để từ 10 tới 14 ngày, mỗi ngày lắc một lúc.
- Khi rượu trở thành màu vàng nghệ, thì vớt bã tỏi ra.
- Khi uống lắc cho đều vì chất cợn trắng là Allicina, trụ sinh diệt các vi khuẩn.
3. Cách uống
- Pha
một muỗng cà phê hay muỗng canh rượu tỏi với một ly lớn nước lớn: nước
lạnh, nước trà, sữa vv.... để bớt hôi và tránh phản ứng của dạ dầy yếu. -
Uống ngày 2 lần: buổi sáng sau khi thức dậy, và buổi tối trước khi đi
ngủ, hay cũng có thể uống trước các bữa ăn, để tránh mùi hôi.
** Bình thường sau đó ăn sáng rồi đi làm
Những ai ngại hôi, thì có thể uống 2 muỗng và phê hay 2 muỗng canh rượu tỏi buổi tối.
Có thể mua thuốc tỏi viên để uống, nếu chịu được hóa chất được pha để duy trì thuốc.
- Ai
không uống được rượu mạnh cũng có thể pha tỏi với rượu nho, hay rượu bàn
mầu trắng hay đỏ, dùng trong các bữa ăn. Khi ngâm tỏi với các thứ rượu
này, có thể để lâu hơn trong khoảng 20 ngày. Thật ra, khi đã xay nhuyễn
như thế, các chất thuốc của tỏi thục ra ngay trong vòng 10 ngày.
** Bã tỏi có thể dùng để ướp cá thịt và nấu ăn rất tốt.
4. Dễ và đơn sơ hơn có thể ăn mỗi ngày 1 nhánh tỏi.
- Thái lát mỏng
- Nuốt với nước (không nhai) để tránh mùi hôi.
Lá cây lô quất
Cây Lô
Quất (Neflier hay Loquast) mọc rất nhiều trong các nước vùng Địa Trung
Hải như: Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, miền nam nước Pháp, Thánh Địa,
Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Bên Hoa Kỳ nó mọc trong các tiểu bang có khí hậu ấm
áp: Califonia, Texax, New Orleans, Florida, New Mexico.
Qủa Lô Quất mọc từng chùm mầu vàng giống trái du da. Lá to, bên trên láng bên dưới có lông. Cây mọc cao có bóng râm mát.
Cây Lô quất có thể chữa được 5 thứ bệnh:
1. Áp huyết cao
2. Tiểu đường
3. Mất ngủ
4. Đi tiểu lắt nhắt ban đêm
5. Ho
- 5-9 lá rửa sạch, lấy bàn chải chà cho bớt lông. - Thắt hay vặt nhỏ ra.
- Bỏ vào nồi nấu như nấu nước trà và uống thay nước trà.
- Nếu muốn cho nước có mùi thơm hơn, có thể bỏ vào lò hay sao trên chảo trước khi nấu.
Rất
nhiều người bị mất ngủ hay khó ngủ cho biết uống lá lô quất ngủ rất ngon
giấc. Có một chị nọ ở San Jose bị mất ngủ gần 20 năm, khi nghe tôi phổ
biến bài thuốc lá lô quất, chị ấy về nấu một ấm nước lô quất bỏ cả chục
lá. Mấy ngày sau gặp lại, chị ấy kể vì ham nấu nước đặc nên đã ngủ “quay
ra” mấy ngày liên tiếp.
Dĩ
nhiên, cũng giống như mọi thứ được thảo khác, có người hợp, có người
không hợp, tùy theo tỳ tạng của từng người. Nhưng nói chung thảo dược
đều lành, không có gì nguy hiểm.
Tẩy sạn gan và sạn mật
Bài
thuốc tẩy sạn gan và sạn mật do nữ bác sĩ Hulda Clark (1928-2009) nghiên
cứu, phổ biến rộng rãi và đã cứu được rất nhiều người khỏi b?nh mà
không cần giải phẫu.
1. Chất liệu để tẩy ruột và sạn
- 4 muỗng muối Epson pha với
- 3 cups nước bưởi tươi (tốt nhất là bưởi đỏ)
- quậy đều rồi chia làm 4 phần
Đây là thuốc xổ sẽ chuẩn bị cho ruột sạch mọi cặn bã.
- 1/2 cup dầu ôliu pha với
- 1/2 cup nước bưởi
2. Thực hiện
14-18 giờ chiều không được ăn uống gì
1/ 6 giờ chiều (giờ GMT) = uống phần I nước bưởi pha với muối Epson
2/ 8 giờ tối = uống phần II nước bưởi pha với muối Epson
3/ 10 giớ tối = uống dầu ôliu pha với nước bưởi
- rồi đi nằm ngay.
Sáng hôm sau
4/ 6 giờ sáng = uống phần III nước bưởi pha với muối Epson
5/ 8 giờ sáng = uống phần IV nước bưởi pha với muối Epson
- Bạn
sẽ thấy đi ra hàng trăm cục sạn lớn nhỏ mầu xanh mềm, nhưng nhiều khi
cũng có các cục sỏi đá cứng mầu vàng, nâu hay đen, nhiều cục có thể to
bằng ngón tay cái.
- Muốn đếm xem được bao nhiêu, thì hứng vào môt cái rổ, sẽ biết, vì khi đó đi cầu chỉ có nước, chứ không có phân.
- Sau đó nên ăn cháo, hay ăn lúa mạch, không nên ăn đồ ăn cứng, vì ruột bị tẩy còn yếu, tránh không bắt nó làm việc.
Tẩy sạn thận
Tẩy sạn
thận đơn giản và dễ hơn, vì không cần phải có muối Epson, là loại muối
tìm không thấy tại rất nhiều nước trên thế giới, kể cả nhiều nước âu
châu.
1. 6 muỗng dầu ô liu pha với
2. 6 muỗng nước chanh vắt
- quậy đều lên uống một hơi
- sau đó uống thêm một ly hay một ca nước lớn, nếu được 1/2 ít thì tốt.
- tiếp đến cứ mỗi giờ uống thêm một ly nước nữa.
Chanh và dầu ô liu sẽ làm cho sạn thận mềm ra rồi tan theo đường nước tiểu.
Uống 3-4 lần như thế là tan hết sạn thận.
Nều cảm thấy chưa hết, có thể làm thêm, vì không có hại và cũng không phiền phức gì.
- Cách thứ hai
Mua một
trái dứa 1 kg, cắt đầu, khoét nõi, đổ vào 1-2 muỗng phèn chua, ghim nắp
lại, dem nướng cho cháy vỏ, sau đó gọt vỏ ăn hay xay ra rồi uống.
- Cách thứ ba
Một trái dứa gọt vỏ thắt lát ra, ninh với 3 lát thanh trà hay bười, cắt ra để cả vỏ. Sau đó ăn hết cả nước lẫn vỏ.
Đây là các bài thuốc đã giúp nhiều người khỏi sạn thận nhẹ nhàng mau chóng, mà không tốn tiền giải phẫu.
Chữa bệnh trĩ
1. Trĩ
hay mạch lươn là một trong các bệnh khá thông thường nhiều người bị. Có
nhiều lý do giải thích cho nguồn gốc của bệnh này:
- vì uống ít nước nên bộ máy tiêu hóa hoạt động khó khăn,
- phân khô khiến mỗi khi đi đại tiện phải rặn nhiều,
- vì ăn qúa nhiều gia vị nóng như tiêu ớt,
- vì giấy vệ sinh là giấy báo,
- hoặc vì nhiều lý do khác.
Khi bị
nặng nó lịi ra ngồi gây ra đau đớn, chảy máu và rất khó chịu. Cho tới
nay phương cách chữa trị duy nhất là giải phẫu cắt bỏ, nhưng vẫn có nguy
cơ bị lại sau một thời gian.
2. Thật ra có một cách trị bệnh trĩ rất dễ và đơn sơ, nhưng ít người biết.
Đó là:
- dùng ngón tay,
- hay chiếc đũa đầu cột ít bông gòn (để cho bớt đau khi nhấn),
- nhấn thật mạnh trên huyệt Hội Âm, là huyệt nằm ở chính giữa khoảng cách giữa hậu môn và b? sinh dục,
- mỗi lần nhấn giữ lâu chừng 2-3 phút,
- sau đó nhấn tiếp chừng 5-10 lần,
- trĩ sẽ rút vào trong ngay lập tức.
Cũng có thể chữa bằng thiên khí năng.
- một tay để trên chaka 7 (Hội Dương)
- tay kia dưới chakra 1 (Hội Âm)
- mỗi lẫn để chừng 10-15 phút.
Đây là
hai cách chữa bệnh trĩ rất công hiệu và mau chóng, chỉ trong mươi phút.
Thiên khí năng chữa trĩ ngoại, nhưng đặc biệt rất công hiệu đối với trĩ
nội xuất huyết.