Bình
Nguyên Lộc
Đêm
ấy, vào một đêm cuối năm, thi sĩ Tôn và vài
người bạn văn nghệ được chủ
nhơn một ban kịch Trung Hoa mời đi ăn cơm
Tàu ở tửu lâu Soái Kinh Lầm.
Tiệc
tàn đã lâu, nhưng bên ngoài trời mưa, mưa tháng chạp,
mấy năm mới rơi xuống một đám, không to,
nhưng lạnh quá nên ai cũng ngại ra về.
Tiếng
nhạc Tàu, đại tấu ở một phòng tiệc bên
cạnh, nghe ấm lây cả đến buồng của
họ, đã bắt đầu lạnh như bên ngoài,
lạnh vì câu chuyện về khuya rời rạc bởi ai
cũng cạn đề.
Người
đãi tiệc lo lắng, sợ khách của ông ta buồn,
nhưng mặc dầu bặt thiệp bao nhiêu, ông ta
cũng không làm cho không khí ở đây linh động
trở lại được.
Không
có một người tân khách nào có mang theo áo mưa cả,
vì đang giữa mùa nắng; chủ nhà biết họ
ngại dầm mưa ra xe, quyết ngồi lì ở đây,
nên cố nặn óc tìm cách giải trí cho họ, nhưng tính
mãi mà không tìm được mẹo gì.
Bỗng,
họ nghe văng vẳng một hơi nhạc khác
hẳn, chơi bằng nhạc khí Âu Châu. Chủ tiệc
mừng rỡ trông thấy.
Hơi
nhạc ấy lưu động, và cứ to dần lên.
Họ
đoán biết những người chơi đờn
đang đi trong hành lang dài, ở giữa những gian
phòng của tửu lâu.
Giàn
nhạc gồm có những cây vi-ô-lông,
một cây ghi-ta Tây Ban Nha và một phong cầm gì chưa biết rõ.
Bây
giờ giàn nhạc đã đi ngang qua cửa phòng của
họ.
Các
nhạc công dừng lại, nhìn vô, và dạo vài câu nhạc
buồn.
Đó
là hai người Trung Hoa và một cô xẩm.
Chủ
tiệc ngoắc một cái, thì họ bước vào phòng,
đứng khép nép mà đợi.
Thật
là đau lòng! Một nhạc sĩ Việt Nam đờn
đệm ở nhà hàng, thường than số phận
tủi nhục của nghệ sĩ đêm đêm phải đánh
đĩ ngón đờn để giúp vui cho một mớ
người hành lạc say mê trước ly rượu hay
trước một người đàn bà, thờ ơ không
biết có tiếng đờn, không biết có một
nghệ sĩ, nhiều khi thanh cao hơn họ, đang
phụng sự họ, để được sống
những ngày cam khổ.
Nhưng
giàn nhạc nhà hàng của nhạc sĩ kia, dầu sao cũng
giữ trọn nhân phẩm của nhạc sĩ.
Đàng
nầy..., họ như van xin, cầu khẩn một
buổi nghe đờn.
Trông
họ, Tôn bắt nhớ ngay đến những giàn
nhạc lưu động ở Trung Âu và Đông Âu, rất
đáng thương trong vở kịch “Anh Em Karamazov”
của Dostoievski, do ban kịch Cl. Bourrin, đã diễn
ở Sài gòn độ nào.
Tất
cả tân khách trong phòng đều lắc đầu từ
chối. Chỉ có Tôn là ái ngại nhìn trân á xẩm cầm
cây vi-ô-lông.
Đây
là một bông hoa đã về lúc phấn lợt,
hương phai, không còn được ai nài nỉ cho nghe tiếng
tơ huyền ảo nữa, nên đến phải ăn
mày một cuộc nghe đờn.
Ngỡ
Tôn thích nghe nhạc lắm, hay thích riêng gì cô xẩm, ông
chủ gánh hát nói gì vài tiếng với cô ta.
Tức
thì cô trao cho Tôn một quyển sổ con ghi tên các bản
nhạc, để chàng lựa chọn. Việt có, Tây
có, Tàu phần nhiều.
Tôn lắc
đầu trả cuốn sổ lại, sau khi lật
sơ vài trang.
Thất
vọng, cô xẩm cứ kéo liều một bản. Đó
là một điệu nhạc Âu Châu mà Tôn đã
được nghe, điệu Granada. À, thật là mỉa
mai: một ngươi đàn bà tàu, đờn một
bản Tây cho một người Việt nghe.
Tôn khoác tay
lẹ lẹ bảo thôi. Rồi hối hận và
để khỏi mích lòng á xẩm tội nghiệp này,
chàng mỉm cười, hỏi:
- Có biết bản Tàu xưa
chăng ?
Á xẩm
dứt tiếng đờn, làm thinh suy nghĩ giây lát,
rồi dạo nhạc.
Bỗng chút,
Tôn nhớ lại những câu Tỳ Bà Hành:
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa nên khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt...
Một điệu nhạc
Tàu xưa trổi lên, tuy không được:
Dây to dường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ như chiều chuyện riêng.
Nhưng
cũng thấm thía buồn lắm rồi.
Á xẩm
đờn xong bản nhạc Tàu, lãnh tiền ra khỏi
phòng, thì trời cũng vừa dứt hột.
Vài câu hẹn
hò tái ngộ xã giao, vài lời cám ơn, rồi chủ đưa
khách xuống lầu.
Họ vừa
ra khỏi cửa Soái Kinh Lầm, thì trời bắt
đầu mưa lại. Mưa tro rỉ rả thôi,
nhưng cũng đủ làm cho họ khổ lắm, vì trong
bao nhiêu khách hàng của cái tửu lâu sang trọng ấy
đều lên xe nhà, họ lại phải dầm mưa mà
đi cầu bơ, cầu bất như một đám tàn
binh. Thi sĩ xông pha mưa gió chỉ nên thơ ở
đâu, nhưng ở đây thật là tủi thân.
Họ đi
về phía góc đường Tổng Đốc
Phương và Đồng Khánh, để đón xe tạp
xế ra Sài gòn.
Khi băng qua
đại lộ Tổng Đốc Phương, họ
chợt thấy á xẩm hồi nãy co ro mau bước,
hộp đờn giấu dưới ngực của cô.
Qua mặt á
xẩm, Tôn không dừng được, day lại nhìn.
Chợt
thấy Tôn, á xẩm ngạc nhiên như tự hỏi: “Khách
đi ăn cao lâu mà cũng dầm mưa về bộ
như nhạc sĩ nghèo à?”
Bấy
giờ mưa nặng hột. Tự nhiên, không bảo nhau,
mà á xẩm và họ đều chạy vội vào núp
dưới hàng hiên của một hiệu thuốc Bắc,
đường Đồng Khánh.
Gió từng
cơn thổi tạt vào hiên những hạt bụi
nước mưa nhuyễn bân, nó chích vào da mặt họ
như những mũi kim đâm nhẹ vào thịt.
Á xẩm
lạnh, run cầm cập, và bối rối lo cho cây đờn
phải bị ẩm, mà mãi không biết giấu nó ở
đâu.
Thấy khuôn
cửa hiệu thuốc Bắc hủng sâu vô trong, Tôn đưa
tay cho á xẩm bước vào đó, rồi bỏ hàng hiên
và các bạn, chàng cũng vào theo.
Ngoài kia,
những chiếc xe Hoa Kỳ bóng lộn, êm ái lướt qua.
Đèn trong xe ấm hiểm, soi sáng nhiều gương
mặt thịt đang cóc cần nghệ thuật một
cách đế vương.
Không bao
giờ Tôn tủi thân nghệ sĩ hơn đêm đó
hết. Trong giây phút, chàng nhớ lại nhiều việc
rất là không vui. Một người bạn văn, ao
ước một cây viết máy EV đã ba năm rồi,
mà vẫn chưa mua được. Tệ hơn nữa,
một thi nhơn muốn có giấy tốt để làm
thơ, mà cũng không làm sao mua nổi một ram.
Một
luồng gió lạnh lại thổi qua. Tôn sực nhớ
lại á xẩm bên cạnh, vì chàng vừa nghe hai hàm răng
cô đánh nhau dòn như người ta nhảy thiết hài.
Day qua nhìn á
xẩm, miệng đánh bồ cạp, nách kẹp hộp đờn
để sang cho nó đôi chút ấm thừa, một
lần nữa, Tôn lại nhớ đến cuộc
gặp gỡ trên bến Tầm Dương ngày xa xưa
kia:
Cùng một lứa bên trời lận
đận...
Câu thơ
của Bạch Cư Dị trong bài hát Tỳ Bà Hành đêm nay
sao mà vang dội như tiếng kêu thương của ngàn
thu cũ.
Cơn
lạnh của ả ca nhi kia, có phải chăng là cơn
lạnh của chính chàng, của bao nhiêu nghệ sĩ khác?
Tôn là một
thi sĩ, mà tài thơ đang vào độ nảy nở
tột cùng. Thế mà chàng đã trải qua những ngày
cơ cực, thì còn nói gì vài năm nữa đây, khi thơ
sẽ cạn nguồn, lời sẽ hủ lậu, thì thật
là “không kẻ đoái
người hoài”.
Ngậm ngùi,
chàng nhớ lại cảnh đời buồn tẻ
của những bạn văn đã về chiều;
những ngày chớm nở của họ vui rộn bao nhiêu,
thì những ngày tàn tạ lại lẻ loi bấy nhiêu,
buồn như cảnh một vị quan xưa về hưu,
ô hô xe ngựa, khách khứa, lễ trình.
Còn nhớ
đến chăng mấy ông bạn văn già, chỉ có
những cậu học trò biết người qua tác
phẩm, không vồn vã lúc đương thời, cũng
không thờ ơ khi tàn nghiệp.
Người
ta mời chàng đi ăn đêm hôm nay, chỉ cốt
để khoe với thế gian rằng, người ta
quen với nghệ sĩ, một nghệ sĩ đang lên. Vài
năm sau, một nghệ sĩ khác sẽ thay cho chàng,
để đi làm món trang sức cho đám tiệc của
những phú ông sính văn nghệ khác.
Tôn tiếc
rằng, đã không ngông được như thi sĩ
Đức Henri Heine, thi sĩ Pháp La Fontaine, để
từ chối mọi cuộc đưa đón, mời
mọc của những ông nhà giàu thích ké cái thơm lây
của văn nghệ sĩ.
Nhưng chàng
hối hận ngay. Dầu sao, các ông nhà giàu nầy cũng
còn biết đến văn nghệ sĩ. Còn khối ông
nhà giàu khác, chẳng coi văn nghệ sĩ ra cái cóc rác gì
hết, thì sao!
Cùng một lứa bên trời lận
đận...
Không bao
giờ, Tôn thấy chàng thân hơn nữa với một người,
chỉ quen nhau với chàng, vì một chuyến đò
nầy.
- Tỳ Bà Hành?
Tôn đột
ngột hỏi á xẩm như vậy. Ý chàng muốn nói: “Cô
có biết bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị
chăng ?”, nhưng dốt tiếng Tàu, và không chắc á
xẩm hiểu câu tiếng Việt rắc rối nầy nên
mong ba tiếng chữ Nho ấy giúp cô ta hiểu.
Á xẩm
ngơ ngác nhìn chàng, Tôn lại đổi giọng của ba
tiếng kia, hỏi nữa:
- Ty Bá Hanh?
Cô xẩm
lại càng ngơ ngác.
- Xý Bá Hang? Tôn lại hỏi
bằng giọng mới.
- Xý Bá Hang à?
Cô xẩm
hỏi gặng lại, nhưng vẫn lắc đầu.
- Pì Pế Hán?
Nhận
thấy á xẩm để tóc rìa phủ lên trán, chàng
biết ả ta là người Triều Châu, và nhơn
biết giọng đọc của Triều Châu cú trắc
của chữ Nho, họ đọc ra bằng và
ngược lại, nên Tôn mới đổi giọng
cuối cùng, thử một lối đọc, mà chàng mong
người Triều Châu hiểu.
Thật là may
mắn hết sức. Á xẩm hiểu thật, lặp
lại câu ngắn của chàng đến hai lần,
vừa nói, vừa cười, vừa gật đầu
lia lịa:
- Pì-Pế-Hán!
Pì-Pế-Hán! Pì-Pế-Hán!
Ả ta
mừng rỡ hết sức, đã đoán hiểu
được câu hỏi của Tôn, vì chàng đã nói
đúng tên bài thơ Tàu ấy bằng thổ ngữ
của cô.
Nhưng
nỗi mừng chưa trọn, á xẩm bỗng chợt
hiểu những ý nghĩ thầm kín của chàng, chợt
liên tưởng, như chàng, đến người ca nhi
già gảy đờn Tỳ Bà trên vàm sông Bôn, cho một thi
sĩ lưu lạc nghe. Mặt cô bỗng đượm
buồn hơn cái đám mưa nằng nặng ngoài kia.
Á xẩm nhìn
Tôn, nhìn chiếc sơ-mi đã nhàu nát, chiếc cà vạt
đã ngã màu, và chắc cô cũng đã liên tưởng đến
một vạt áo lam hoen bụi viễn tái.
Cô ngâm nho
nhỏ những gì mà Tôn đoán hiểu như là:
Kim niên hoan tái phục lai niên,
Mộ khứ triêu lai, nhan sắc cố.
…
Môn tiền lãnh lạc, xa mã hy...
Bỗng Tôn nghe cô ta nấc
lên mấy tiếng.
Dưới ánh đèn lờ
mờ, vài giọt nước chảy lăn trên má cô. Lệ
hay nước mưa?
“Pì-Pế-Hán! Pì-Pế-Hán!”
Á xẩm thổn thức,
lập đi, lập lại tên của bài thơ Bạch
Cư Dị đến mấy lần.
*
Đêm hôm đó, viên Tư Mã
tưởng tượng của đất Giang Châu không cho
lệ thấm lam y, vì trong giây phút trấn tĩnh, hắn
thấy mình chưa chịu chiến bại như ả ca
nhi kia.
No comments:
Post a Comment