Bình - nguyên Lộc
Mặc dầu nó cù lần,
con tám Cù Lần là hy vọng cuối cùng của tôi [1].
Từ hôm đầu năm
tới bây giờ, tôi đã thay đổi người làm
năm lần rồi. Tôi nghe nói bên Âu Mỹ, công ăn
việc làm nhiều lắm, nên người đi ở
lấy rất mắc và chỉ có bực triệu phú
mới dám thuê người thôi, nên tôi cũng không khổ
lắm mà phải làm một mình đủ thứ việc
trong nhà, ngặt trẻ con đông, tôi không làm sao mà quán xuyến
cho hết công việc.
Con Tám Cù Lần là đứa
độc nhất không biết rằng ngoài gia đình tôi,
còn rất nhiều người hoạt động trong
đủ thứ ngành, ngành nào cũng cần nhân công, cho
đến mấy ông thầu khoán mà cũng tuyển mộ
phụ nữ để phụ với thợ nề, tuy
họ trả lương không cao hơn tôi, trên hai ngàn
đồng mỗi tháng mà không cho ăn, ở, áo quần
như tôi, nhưng phụ nữ họ vẫn thích đi
làm phu lương thấp hơn là đi ở. Họ không
đá động tới nhân phẩm, tới gì hết ráo,
nhưng tôi biết rằng ai cũng sợ nội trợ
cả, chính các bà nội trợ là tôi đây mà còn sợ,
huống hồ gì là người chưa có gia đình: làm
nội trợ rất tối tăm và rất buồn,
chưa kể nhọc không tưởng tượng
được.
Nếu như mấy năm
trước thì tôi không thể nào nhận con Tám Cù Lần
cả.
Các cháu cho nó cái tục danh
ấy, và tục danh được trường sanh, vì
tả rất đúng con Tám.
Các bạn có bao giờ
thấy con Cù Lần chưa? Tôi không có gặp nó trong
rừng sâu như đàn ông đã gặp mà chỉ thấy
một con Cù Lần người ta bắt về nuôi mà thôi.
Nó nhỏ cỡ bằng con mèo, nhưng lông màu giống màu
lông chó phèn. Đôi mắt nó lờ đờ và như lim dim
ngủ suốt ngày, có xô đuổi nó, nó cũng không
buồn biết tới. Khi nào cần xê dịch lắm, nó
mới dời chỗ, mà nó phải bỏ ra một
tiếng đồng hồ để đi lối một
thước tây. Ấy, con Tám là hình ảnh trung thành của
con Cù Lần, có kêu gọi nó thì phải đợi
mười phút sau mới nghe nó lên tiếng, và đợi
thêm mười lăm phút nữa mới thấy mặt nó,
mặc dầu nhà tôi, từ trước ra tới sau
bếp chỉ dài có 15 thước tây thôi.
Nó cũng chẳng biết làm
gì hết ráo, trừ lặt rau và rửa chén. Vậy mà tôi
quí nó lắm, vì dù sao nó cũng đỡ tay cho tôi phần
nào. Chẳng hạn, tôi dạy nó lau gạch trong một
tuần lễ thì nó đã lau sạch được
nền nhà, một mình nó, khỏi phải kiểm soát
nữa. Giặt giụa thì hơi khó thật đó Nhưng
chắc dở lắm nó cũng làm được sau
một tháng học tập. Sáu tháng nữa là tôi có thể
nghỉ ngơi một ngày vài tiếng đồng hồ.
Người mình cứ tin
rằng đi rừng mà gặp con Cù Lần thì ba năm làm
ăn ngóc đầu không lên, nhưng ngày mà một
người bà con đưa con Cù Lần nầy tới
đây, tôi sung sướng vô cùng. Dĩ nhiên là ngày đó nó chưa
mang tên Cù Lần nhưng tôi đã nghĩ ngay đến danh
từ Cù Lần lúc thấy mặt con bé thôn nữ quá
chậm chạp này.
Bỗng dưng đùng
một cái, cái hy vọng cuối cùng của tôi, một
đêm kia, xin nghỉ việc.
Tôi choáng váng gần như là
nghe ba các cháu tỏ ý muốn đoạn tuyệt với
tôi. Năm đứa con thơ, mà đứa lớn hơn
hết mới có bảy tuổi, đứa bé hơn
hết mới được có sáu tháng thì các bạn tính
coi.
Thật là tin sét đánh vì con
tám Cù Lần không có tánh ngồi lê đôi mách, không ưa
đánh đôi đánh đọ với bạn đồng
nghiệp của nó cùng khu phố - vả lại cũng còn
leo heo vài đứa thôi, đứa nào cũng tật
nguyền cả - thì làm sao mà nó biết tin tức về
sinh kế ở đô thành hiện giờ mà muốn „thoát
ly“. Các bà nội trợ ở xóm nầy, chắc không ai
dụ dỗ nó làm gì, trái hẳn với thói phần đông
của các bà, vì ai thấy cái tướng Cù Lần của
nó cũng phát ngán, đâu có chuyện quyến rủ một
người làm giỏi, hoặc kha khá.
- Mầy
xin thôi thiệt sao Tám? Tôi gạn hỏi nó một cách
ngớ ngẩn như vậy, và nó thật thà đáp:
- Dạ thiệt cô à!
- Ai nặng nhẹ mầy, ai ăn hiếp ăn
đáp mầy?
- Dạ, không có ai cô à.
Tôi nghĩ
tới các cháu, khi hỏi câu trên. Chúng nó không ác, nhưng chúng
nó có thể vô tình làm phật lòng con bé hiền lành nầy.
- Mầy thôi để đi làm cho
Huê kỳ hả?
Con Tám ngơ
ngác nhìn tôi mà không đáp, và tôi hiểu ngay rằng không
phải thế. Không, nó không hề hay biết gì hết
về sự đổi thay mấy tháng nay: công việc
nhiều, người làm ít. Nó thật thà, dốt nát, và
không có đi đâu cả, trừ theo tôi đi chợ
rồi về.
- Chớ mầy thôi rồi đi
đâu, làm gì?
- Dạ, cháu nhớ ốc
gạo.
- Nhớ ốc gạo?
Bây giờ
tới phiên tôi ngẩn ngơ nhìn nó. Con bé nầy nó trêu tôi
sao mà? Ai lại nhớ ốc gạo!
Kể về
thú vật thì chính mắt tôi đã thấy những
thằng bé chăn trâu, chăn bò, nhớ trâu bò, khi chủ
chúng nó bán những con vật ấy. Chính mắt tôi lại
đã thấy những bà cụ ở thôn quê sa nước
mắt mỗi lần chú chệt mua heo xách cây cần vòng
bằng mây đến bắt chơn cho heo của các
cụ té rồi trói gô lại khiêng đi. Người da
trắng xem chó là bạn thân, nhưng xứ ta, chó chỉ
đứng vào hàng thứ ba trong nỗi nhớ niềm
thương của thiên hạ thôi. Và những loài vật
được loài người thương nhớ,
chỉ có bốn loại ấy, trong xã hội ta. Tôi có nghe
vài người nói nhớ gà, nhưng họ nói nghe ra không
tha thiết lắm. Nhưng ai lại nhớ ốc gạo
bao giờ. Loài ốc gạo ở dưới nước,
nội cái đặc tính ấy của giống vật
đó đủ chỉ rõ rằng ta không có lý do mà nhớ
nó. Nó có gần gũi như mèo, hay tệ lắm như
chuột đâu. Con dơi coi vậy mà thỉnh thoảng
còn vào nhà thăm ta, chớ ốc gạo thì lạnh như
nước rạch mà chúng sống trong ấy!
- Theo pháp luật thì mầy với
tao, cả hai phải báo với người kia hay
trước mười lăm ngày, nếu muốn thôi nhau,
mầy có biết không? Tôi hỏi.
- Dạ không.
- Không thì nên biết đi.
Tao có quyền cho mầy thôi việc ngay bây giờ, miễn
là phải trả công không cho mầy cái mười lăm
ngày mà mầy được biết số phận, để
đi tìm việc khác, còn mầy thì không, bởi mầy có
thể không có việc mà vẫn khỏi đói nhờ 15
ngày lương đó, còn tao thì cỡ tao được
nhận tiền bồi thường của mầy, tao
cũng bị thiệt hại bởi công việc bị
ngưng trệ thình lình. Mầy hiểu không?
- Dạ hiểu.
- Vậy thì mười
lăm ngày nữa mầy mới nghỉ việc
được.
Tôi không thích
giữ một người buồn, nhưng chưa tìm
được người, biết sao!
Con Tám Cù
Lần nhẫn nại chiu số phận, nhưng nó
giống hệt một đứa con gái đau tương
tư.
Tôi đưa
nó đi Thảo Cầm Viên, đi coi Cải lương,
đi xem đèn màu Sài gòn ban đêm. Không ăn thua gì cả.
Nó mê những thứ ấy thì quả có mê thật đó, nhưng
không nguôi được mối tình ốc gạo của
nó, khiến tôi đâm nghi rằng nó nói láo, chớ thật
ra là nó sầu tình, thằng nhơn tình của nó có lẽ
nhắn nó về.
Hồi nó vô
làm với tôi, nó nói rằng ở dưới không yên. Tôi tin
rằng nó nói thật, và vẫn còn tin. Như vậy sao nó
lại cứ nằng nặc đòi về chỗ thiếu
an ninh?
- Tại sao chị lại đòi
về dưới ấy chi Tám? Thằng Công, thằng con
lớn nhất của tôi hỏi con Cù Lần như
vậy.
- Vì tới mùa ốc gạo
rồi.
- Tới mùa thì sao?
- Chị phải về
đi xúc ốc gạo.
- Ốc gạo sống
ở đâu chị?
- Ở dưới rạch.
- Làm sao mà xúc chị?
- Thì đợi nước
ròng lấy rổ xuống dưới ấy mà xúc chớ.
- Xúc chi vậy chị?
- Xúc để bán.
- Bán bao nhiêu một con
chị?
Tới
đây, tôi sực nhớ ra là bà bán rượu lậu ngoài
đầu ngõ tôi, bả bán ốc gạo luộc làm
đồ nhắm cho bợm nhậu, một đồng
bạc có ba bốn con gì đó. Ba bốn con ốc gạo
với lại một chén nước mắm chanh nhỏ
bằng cái vú cau, mà những một đồng bạc thì
kể ra cũng khá được tiền.
Tôi đợi
nghe tới, xem con Cù Lần cho biết giá cả và số
ốc gạo mà nó xúc được. Nhưng nó chỉ
bật cười mà không đáp.
Con tôi không
hỏi lại, hỏi câu khác:
- Chị xúc một ngày
được mấy con?
- Mấy con thì lấy gì mà
ăn. Mỗi ngày chị xúc hàng chục rổ.
- Dữ vậy lận? Mà
chị bán bao nhiêu một con chớ?
- Đâu có bán con, bán con gì
được. Chị bán rổ.
- Bao nhiêu một rổ?
- Chừng ba đồng
bạc.
Tôi ngạc
nhiên quá. Như vậy, công nó làm,bọn trung gian ăn
hết và nó chỉ kiếm được khoảng ba
bốn chục bạc mỗi ngày, đâu có bằng
lương tháng có ăn ở và áo quần của tôi.
Hơn
thế, mùa ốc gạo kéo dài cao tay lắm là hai tháng mà
thôi. Có đáng gì cho nó bỏ một chỗ làm, một
nơi tạm trú tốt trong lúc nó đi tìm an ninh?
- Hễ tới mùa ốc gạo là
chị phải về hả? con tôi lại hỏi.
- Ừ.
- Sao vậy?
- Để bắt ốc.
Con Cù Lần
trả lời sai vì nó đần, chớ không phải
muốn đánh trống lấp đâu. Nó không phân biệt
được hai nghĩa khác nhau của hai câu hỏi:
“Về chi vậy” và “Tại sao tới mùa thì phải
về”.
Nhưng con tôi
cũng khờ không kém, nên nó thỏa mãn được
với câu trả lời ăn trớt đó, và hỏi câu
khác:
- Chị về đâu chị Tám?
- Về chợ Bưng.
- Chợ Bưng có vui không
chị?
- Vui lắm !
- Vui bằng Sài gòn không
chị?
- Vui hơn.
- Có xi-nê không chị?
Con Cù Lần
không biết xi-nê là gì, nhưng đáp bừa:
- Có
- Chợ Bưng ở
đâu chị?
Tôi nín thở,
để nghe nó trả lời. Đó là cái chợ xép ở
xó quê nào, làm gì mà có xi-nê. Nhưng con Cù Lần không bao giờ
nói láo, nên tôi tin rằng ở quê hương nó có xi-nê, và
đợi nghe coi nó cho biết ở đâu, để mình
bớt dốt địa lý nước nhà, bởi cái
chợ có xi-nê ấy hẳn phải quan trọng lắm,
tôi không có quyền không biết.
Con Cù Lần
mù chữ. Nhưng tôi lại hình dung được rõ ràng
cái chợ Bưng, qua lời tả của nó, như là nó
đã thấu đáo khoa tác văn, chương miêu tả.
Nghe xong, tôi mới hiểu vì sao mà nó nhớ ốc gạo.
- Nè, em biểu xe đò nó ngừng
lại ga Tân hiệp nha.
- Ừ !
Thẳng Công
không hề biết ga Tân hiệp ở đâu cả, nó
cũng không hay rằng nhà ga ấy đã được phá
hủy rồi vì đường thiết lộ Sài
gòn-Mỹ tho đã bị bỏ từ lâu, nay nhà ga biến
thành một địa danh. Nó cũng chẳng định
đi chợ Bưng, nhưng nó nghe lời chỉ nẻo
như là nó muốn xuống dưới ấy một
chuyến.
- Ừ!
- Đó, con đường
đi chợ Bưng ở trước mặt ga Tân
hiệp.
- Xuống xe ở đó
rồi đi bộ sao?
- Chớ đâu có xe mà
đi, mà có, đi cũng hổng được, vì là
đường đất.
- Đi mỏi chân hôn
chị?
- Hồi đó thì không, bây
giờ thì mỏi.
- Bây giờ chị già
rồi, như bà ngoại vậy hả?
Con Cù Lần
cười ngất rồi đính chánh:
- Hổng phải. Hồi
đó có xe lửa, họ đi buôn bán đông, đi
đường chung với nhau vui nên hổng biết
mỏi. Bây giờ đường vắng đi ngán lắm.
Mà có cái nầy, còn ngán hơn.
- Gì ?
- Ma!
- Ý, ẹ, ghê quá! Ma trong
rừng hả?
- Đâu có. Xứ chị
hổng có rừng. Chỉ có bưng mà thôi.
- Bưng là cái gì?
- Là đồng lầy.
- Ma ngoài đồng?
- Ừ, ma ngoài đồng,
ma trên gò é. Con đường đất ấy đi ngang
qua một cái gò, gò cao, nên họ chôn người chết
ở gò cho khỏi bị nước ngập.
- Ma nhiều hôn chị?
- Bao nhiêu cái mả thì bao
nhiêu ma.
- Mà có mấy cái mả?
- Có cả trăm cái.
- Ý, ẹ !
- Đi ngang qua đó
giấc hừng đông, giấc chạng vạng, và
nhất là vào giờ đứng bóng thì ai cũng phải
chạy, và ai cũng bị nó rượt theo sau, nó rượt
nà, tiếng chơn của nó mình nghe đùi đụi.
Quả
đúng như tôi đoán. Cứ theo lời con Cù Lần thì
chợ Bưng chỉ là một cái chợ xép, mười
giờ đúng là tan chợ. Chợ cất bằng gỗ,
lợp lá. Hai bên chợ leo heo vài tiệm tạp hóa. Rồi
thì nhà dân.
Nhưng con Cù
Lần không ở tại chợ đâu. Nhà nó cất trong
xóm trong, phải qua ba con rạch mới tới xóm.
Thằng Công
không đồng ý:
- Vậy mà chị nói vui bằng Sài
gòn !
- Ừ, vui bằng.
- Em có thấy gì vui đâu?
- Em hổng biết chớ
đi chợ vui lắm, đi ga cũng vui lắm.
- Vui cái khỉ khô.
- Vui chớ. Đi chợ
hồi ba giờ khuya, đi qua nhà chị em bạn, hú
họ, họ ra vầy đoàn với mình, chín, mười
chị, lại hổng vui sao?
- Sao lại phải đi
chợ khuya?
- Đi chợ ngoài
đường lộ, chớ có phải đi chợ
Bưng đâu.
- Sao lại có chợ
Bưng mà hổng đi?
- Ở đó thiếu
đồ. Mỗi tháng phải đi chợ lớn ngoài
đường lộ một lần. Khuya hai giờ, thức
dậy nấu cơm ăn, lại hổng vui sao?
- Ăn cơm sao lại vui?
- Nấu cơm vui. Muốn
nấu cơm, phải nhúm lửa, mà lửa thì vui.
- Lửa vui?
- Ừ, ở dưới
tối, nên hễ sáng là vui. Ở dưới lạnh, có
lửa ấm thì vui. Em mà thấy lửa chiều mưa
thử coi.
- Lửa chiều mưa làm sao?
- Chiều mùa mưa, ai làm
ngoài ruộng, hay đi đâu cũng về nhà hết
rồi ăn cơm ở nhà bếp, quanh lò lửa, đông
đủ cả nhà, vui lắm.
- Đã ăn cơm mà còn
nấu cái gì nữa?
- Ừ, ở dưới
nhà quê luôn luôn nhúm lửa chớ không để tắt
bếp như trên nầy. Mà hễ lửa có là phải
nấu cái gì, thí dụ luộc khoai.
Còn sang mùa
Bấc thì lửa ngủ rơm cũng vui.
- Lại một thứ
lửa nữa! Nhưng em hổng thấy gì vui hết.
- Vui lắm chớ. Nè,
gặt rồi thì phơi rơm ngoài ruộng. Có khi phơi
lúa nữa. Phải ngủ ngoài ấy giữ lúa, giữ
rơm. Gió Bấc lạnh, năm bảy chị em
đốt rơm lên,vui chơi, hò hát, vui lắm mà.
- Hông, lửa đâu có vui,
thằng Công nhất đinh không nhận quan điểm
của con Cù Lần.
- Vậy hả? Em hổng
thấy là lửa vui sao?Vậy thì nước vui.
- Nước làm gì mà vui?
- Nó không có làm gì hết. Nó
chỉ dâng lên tới thềm là vui, thấy như là mình
sung túc.
- Nước ở đâu mà
dâng lên tới thềm?
- Ngoài đồng. Bờ
nước cũng vui. Em hổng thấy cây bần mọc
dựa rạch lúc chạng vạng tối. Đôm
đốm nó đậu nghẹt các lá cây, các nhánh cây, nó
chớp cháy rồi tắt, buồn ghê lắm!
- Buồn, sao chị nói là
vui?
- Ừ buồn mà vui.
Chị nghe vui mà được buồn.
- Chị nầy điên.
- Em hổng biết đâu.
Phải có nghe
giọng con Cù Lần nói, mới thấy được
lòng thương mến làng mạc của nó, giọng nói
còn quan trọng hơn là lời nói nhiều lắm. Lại
còn những lúc im lặng nữa. Ta học nhạc Tây
phương, đã thấy những sự quan trọng
của những chỗ im lặng, thì những lúc con Cù
Lần im lặng cũng quan trọng lắm. Tôi nghe và hình
dung nó đang nhìn xa về làng nó.
Thì ra nó
chỉ nhớ nhà mà thôi, chớ không có nhớ ốc
gạo khỉ khô gì hết. Nỗi nhớ nhà nầy
được mùa ốc gạo gợi lên, thành ray rứt
quá, nó chịu không thấu, khi nó thấy ốc gạo bán
đầy các vỉa hè cho bợm nhậu nhắm
rượu. Chắc không thể nào nó trở lên đây
nữa, sau mùa ốc gạo.
Tôi thấy
trước rằng tôi sẽ bùi ngùi nhớ nó, nhớ cái
vùng quê mà nó tả, bởi tôi có ở thôn quê, tôi hiểu
được nó và niềm thương nỗi nhớ
của nó cũng cùng một loại với niềm
thương nỗi nhớ của tôi, thuở tôi rời
làng lên đây. Con tôi không làm sao mà hiểu được
hết, vì chúng nó không biết cái tình nhớ xứ là gì.
Đô thị không phải là nơi mà người ta có
thể nhớ được, huống chi đô thành Sài gòn
thật kém thơ mộng. Ngày mai, tôi phải cho gia đình
ăn ốc gạo một bữa mới được,
mặc dầu món ăn ấy rất kém vệ sinh. Con Tám
Cù Lần có thể nhớ nhiều kỷ niệm nữa,
do ốc gạo gợi ra, sẽ nói thêm cái gì. Mà tôi thì
rất ưa nghe nó thật thà kể lể những
chuyện không đâu mà có mình nó với tôi là hiểu thôi.
No comments:
Post a Comment