Bình-nguyên
Lộc
Viết
theo một chuyện cổ tích của làng Tân uyên để
tặng những đứa con yêu mến của Tân Uyên đã xiêu bạt khắp mọi
nơi sau mùa tiêu thổ 1945.
Tôi ưa đi câu, không
phải để được cá bởi vì tôi nặng
bóng vía lắm:
Cá
không ăn câu, mồ cha con cá dại
Cần câu anh
cầm, nghĩ lại con cá khôn.
Cũng
không phải theo dấu của ông già sông Vị đợi
chờ chúa Thánh rước về làm tướng Tây
kỳ.
Đi câu, đối với
tôi là những giờ mà lòng được nhẹ bổng
không buồn, không vui, lâng lâng như đã thoát trần.
Đi câu là những giờ rình một tăm cá hay lơ
đãng ngó theo bóng chim thằng chài xẹt mau như sao băng, hoặc
xem „từng mây lơ lửng trời xanh ngắt“. Đó
là những phút hồi hộp nhìn cái phao chìm lần... chìm
lần, nghe đầu cần câu nặng nặng.
Rồi... roạch một cái, con cá gì đó đã sứt mép
còn lưỡi câu thì góa mồi, mồ hôi ngư ông nhỏ
giọt... Đi câu là xem những con sông, ngọn rạch,
tựa hồ như những con đường biết
đi, mang theo hình ảnh của cả một sự
sống, một cuộc đời hiếu động.
Đi câu là vớt những trái tràm, những bụi cây rù rì
trôi từ trên nguồn về để nghe nó kể lể
chuyện rừng xanh.
Tôi lại thích đi câu
dầm. Vì vậy mỗi lần về quê, tôi về vào mùa
mưa để đi câu dầm, tìm lại những
cảm giác đã sống qua ngày nào.
Phải nói cho các bạn nghe
câu dầm là làm sao chớ. Có gì đâu: vài chục cần
câu tre ngắn, đâu cần uốn cong như cây cung,
đuôi cần vạt nhọn, nhợ câu ngắn hơn
cần một chút, lưỡi thép hơi to.
Ở làng tôi người ta
gọi đó là câu cắm, là vì cần câu được
cắm dài theo bờ ruộng, có người lại kêu là
câu bủa, vì cần nhiều, bủa khắp đồng ruộng.
Còn câu dầm của họ thì lại là một cách khác
nữa.
Nhưng tôi có cần gì nói
trúng một tiếng nhà nghề của địa
phương đâu. Câu dầm của tôi là một cuộc
đi câu ban đêm, những đêm mưa dầm, phải
dầm mưa mà câu.
Ở đây, câu, đối
với tôi cũng không phải là bắt cá bằng cần.
Đi câu dầm là hứng lấy những hột mưa
nhọn hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay
để được tận hưởng trong tưởng
tượng cái cảnh ấm êm, chăn gối nệm
bông.
Bơ vơ trong bóng tối,
thèm thuồng một ngọn đèn xa... Lắng nghe sự
sống bí mật, âm thầm của côn trùng trong cỏ,
trong lau... Rùng rợn vì tiếng vạc não nùng như
tiếng một cô hồn đau khổ, và tiếng thì
thầm của đêm tối, tiếng gió vi vu...
Đó là những thú lạ
thường mà người kỳ khôi hay tìm kiếm.
Nhưng điều nầy thích hơn hết, là đi câu
dầm thế nào cũng gặp ông Ba Sa.
*
*
*
Ông Ba Sa là một người
thuộc về âm. Ban ngày không ai thấy ông đâu hết,
trừ khi ông giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đình.
Những lúc hội họp xóm làng như vậy, ông ít nói
chuyện với ai, không hiểu vì thói quen sống cô
độc, hay vì lẽ gì khác.
Như một con cú ăn
đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi
nhà lúc đỏ đèn để đi câu dầm, về
mùa mưa. Còn trong những tháng nắng ruộng khô không
biết ông làm gì.
Đêm nào tôi cũng thấy
ngọn đèn ông Ba leo lét đằng xa. Một khi kia nghe
mình hiu quạnh cô đơn quá, cần phải nói với
ai một điều gì, hay ít ra cũng cần sự có
mặt một „hơi“ người bên cạnh, tôi mò
lần lại cái đóm đỏ, ẩn hiện như
đèn ma đằng kia.
Ông Ba cũng không tìm cách
trốn tránh gì tôi, song cái miệng làm thinh của ông thì không
ai cạy nổi.
Nhưng tôi đã có những
chiếc đũa phép, một điếu thuốc
mời, rồi hai điếu, rồi ba, rồi không còn
biết là mấy điếu nữa. Trong những lúc
như vậy mới biết hút thuốc điếu là
sướng.
Cái sức nóng nhỏ mọn
của điếu thuốc như thấm nhuần
khắp châu thân, nghe như đỡ lạnh mình và lạnh
lòng.
Khói thuốc xui người
khép nép nhứt cũng phải cởi mở lòng. Lời
qua, tiếng lại, ban đầu còn cụt ngủn,
xẳng lè lần lần thân mật, có bao nhiêu trút rót ra
không tiếc.
Một tiếng sét
đằng xa vọng lại, tức thì ông Ba có chuyện
Thiên Lôi, chuyện lưỡi tầm sét để nói cho tôi
nghe liền.
Ông Ba biết rất nhiều
chuyện yêu ma, và ở đây, hoàn cảnh rất thích
hợp để gợi sự hãi hùng, rùng rợn.
Nào là chuyện thằng cha
đi câu dầm, đêm kia gặp một bà già lạnh quíu,
run rẩy bên đường. Động lòng thương,
anh ta cõng bà ấy về làng. Nhưng dọc
đường nghe càng lâu, càng nặng, nặng quá, đi
không nổi. Anh ta ngó ngoái lại thì trời ơi, đó là
một cỗ hòm lâu đời, mục nát, hôi tanh...
Lại chuyện anh chàng
đi soi ếch, nửa đường có thằng nhỏ
xin theo xách giỏ.
Tới khuya, anh ta xem lại
giỏ coi được nhiều hay ít... thấy máu
chảy ròng ròng, ếch thì con nào con nấy cũng mất
đầu, anh ta hỏi lẩy thằng nhỏ:
- Bộ
mầy ăn ếch sao mậy?
- Ừ, tôi ăn.
- Bộ
mầy là ma sao mà...
Anh chưa dứt tiếng thì
trời bỗng chớp lòe, thấy miệng thằng
nhỏ dính máu tèm lem, túa lụa, còn lưỡi nó thì le ra dài
tới rún...
*
*
*
Áo tơi và nón trũm của
chúng tôi không đủ che mưa, đỡ gió. Chúng tôi
lại hút thuốc cho ấm. Một điếu, rồi
hai điếu... rồi ba, bốn, năm, sáu điếu.
*
*
*
- Cái
thở [1]
mà tui [2]
còn trai như cậu - một đêm kia ông Ba kể - tôi có
thèm câu cắm như vầy đâu. Cá ruộng, một
năm có mấy tháng mà bán cũng không bao nhiêu tiền.
Hồi đó con sông Đồng nai của mình còn nhiều
cá, mà cá lớn, tôi chỉ đi câu xuồng. Một ngày,
một đêm, kiếm mạt lắm cũng
được năm quan tiền [3].
Tôi cũng biết sát phạt
quá, bắt vật trời sanh lắm thì mang tội, song
nghèo thì biết tính sao. Thôi thì tới đâu hay đó,
nữa chết xuống dưới phải tội nào hay
tội nấy. Nhưng tôi “đã xuống dưới”
trưởc khi chết, nên từ ấy những nay, tôi
dẹp cái nghề câu sông đi.
Ông Ba rút một hơi
thuốc dài, rồi cho khói ra lỗ mũi chầm
chậm... Đoạn ông thuật tiếp:
- Cậu
cũng biết chớ... chợ Tân uyên mình địa
thế tốt lắm. Mấy thầy địa lý cắc
chú đi du phương, qua đó, thầy nào cũng khen.
Nên cái chùa „Ông“ [4]
sau chợ bị nhà nước bắt dời đi
mấy lần, mà „cắc chú“ họ cứ rủ nhau xin
để lại cho được mới nghe.
Trước chợ, con sông, bờ cao ngất.
Nước sông trước
chợ lại vận thành xoáy khu ốc, như cố ý
dừng lại trước một địa thế linh
thiêng. Bên kia sông, ngay chợ, khu rừng cấm Bình hưng
trên hòn cù lao Tân chánh, ngó giống tấm bình phong, hay cái tam
quan trước chùa chiền. Rừng sầm uất, cây
cao, bóng mát đứng trên mé vực cao, nghiêm nghị
rọi mình xuống sông sâu. Nếu không có chợ, nhà,
người đi ghe thương hồ qua đó không
khỏi sởn tóc gáy, vì cái vẻ linh thiêng, tịch minh
của nó.
Mấy ông hồi
trước thuật rằng: ngay dưới miếng
đất cất chợ có một cái hang ăn luồn vô
riết tới chùa Ông, tới chỗ cái hồ trên miệng
có xây con cá hóa long, cậu biết chớ ?
Một đêm kia, cái nhà sàn
của chú Sang, cất dựa mé sông, bỗng đổ
sụp. Bao nhiêu của cải, vàng bạc đều đi
tuốt hết, còn chủ nhà và vợ con thì, may quá, lội
vào bờ được. Chú Sang mướn thợ
lặn, định mò vớt của lại. Nhưng cái anh
thợ lặn ấy tìm hoài không thấy dấu vết cái
nhà, không lượm được lấy một mảnh
ngói, một tấm ván nhỏ. Anh ta gặp một miệng
hang, ngó vô tối đen như mực. Hang thần
được dân làng biết từ đó.
Đó, mấy ông thuật
rằng trong hang đó có một cặp cá bóng tu lâu
đời thành thần. Hai vị thần nầy đã
linh, lại hiền từ, nhơn đức hay phù hộ
dân làng.
Cậu thấy không,
người trong làng mình phần nhiều có chữ,
đất địa có „Mão quan“ rõ ràng.
Trong khu rừng cấm trước
chợ lại có cặp „cù“ cũng tu lâu đời thành
thần. Nhưng đó là hai vị thần nhỏ,
tướng của thần cá bóng.
Thần Cù rất hung ác, tham
lam...
À! Quên cái nầy, mấy ông
nói nhỏ cho nghe rằng Thần Cù là cặp rắn,
lớn mà ngắn, mồng đỏ, mỏ nhọn...
Hễ năm nào dân làng không cúng hối lộ thì năm
đó thế nào cũng bị tai họa. Cái chợ hồi
trước còn lợp tranh, cứ vài năm lại cháy
một lần. Đêm trước khi cháy chợ, dân làng
nghe bên rừng tiếng gầm thét vang trời. Bởi
vậy, hằng năm làng có lập đàn làm chay
trước chợ, để tế Thần Cù và luôn
tiện bổ thí cô hồn, các đảng [5].
Mấy ông lại thuật
rằng có lần kia, một người câu xuồng,
bỏ neo tại bến Trâu, núp dưới bóng một cây
nhông. Chỗ ấy rậm rạp, đi thuyền trên sông
không thấy được. Khi đương câu, anh ta
thấy giữa dòng sông nổi lên một con rùa lớn
bằng cái nia. Rùa ngó quanh quất rồi lặn xuống
liền, nửa giờ sau, người đi câu
được mục kích một cảnh tượng
hết sức lạ lùng. Nơi mà con rùa hiện lên hồi
nãy, thấy có khói từ dưới nước bay lên.
Đó là khói hương trầm thơm ngây ngất, bay
tản ra khắp mặt sông. Rồi từ từ nổi
lên hai vị thần, một vị nam, một vị
nữ, ngồi đối diện trước một bàn
thạch. Hai vi thần nầy, đen hắc, đầu
đội mão hình đuôi cá, xiêm y rực rỡ những
vảy cá ngũ sắc, những vỏ ốc xa cừ. Xem
kỹ lại thì thấy thần đương đánh
cờ. Chừng đâu được tàn một
điếu thuốc bỗng nghe vị nữ thần nói:
“Ông nè, ở đây nghe như có hơi phàm”. Vị nam
thần bèn ngước lên, nhìn quanh, dừng mắt lại
phía xuồng câu, nhìn chăm chỉ rồi châu mày, tỏ
vẻ khó chịu. Người đi câu còn hoảng sợ
thì cả thần và bàn thạch đều chìm một cách
mau lẹ.
Một lát
sau, nơi khúc sông ấy, máu trào lèn nhuộm đỏ
khối nước và thây con rùa ban nãy nổi lình bình. Các ông
nói đó là một vụ trừng phạt tên lính dọ
đường không kỹ, để mắt tục dòm
thấy cảnh thân mật của thần.
Tôi
chận ông Ba lại nói: “Tích nầy tới đây tôi đã
biết, người nào ở Tân uyên lại không rõ
chuyện “Cặp Cá Bóng tu dưới chùa Ông” và chuyện
“Cặp Cù gáy cháy chợ”. Nhưng rồi làm sao nữa?
Ông
Ba kể tiếp:
- Có một khi đó, đương
câu, tôi nghe nó rị cần mạnh quá, tôi biết là cá
lớn ăn. Cái thứ cá lớn thì không nên kéo lên liền:
như vậy chỉ thêm đứt nhợ, gãy cần mà
thôi. Tôi cho xuồng chạy theo sức lôi kéo của nó.
Nhưng
nó mạnh quá, sợi nhợ căng thẳng muốn
đứt ra, tôi phải vừa bơi phụ thêm, vừa
hớp nước sông phun cho cá nó mệt. Chạy theo doi
Hàn, thì con cá đó đuối sức, thả ngửa trên
mặt nước. Con cá nó lớn gần bằng thằng
nhỏ năm tuổi lận. Mà điều nầy kỳ
quá cậu, nó cứ nhìn tôi, hai mắt nhấp nhái như
người ta ra hiệu. Tôi phát sợ lên, bứt dây,
rồi thả cho nó trôi đi. Nó mừng quýnh, ngó tôi lần
chót rồi lặn mất.
Lúc
về ngang xoáy nước, xuồng tôi khi không vùng lật
úp. Tôi tưởng phen đó chết trôi rồi, vì chỗ
nước vận, tài giỏi như rái cũng không
lội nổi.
Nhưng
lạ quá, tôi bi nước rút xuống, chìm mà không ngộp,
và lại chìm đứng, chớ không đâm đầu
xuống như người chết đuối.
Đáy
sông không có bùn, không có cát, mà lót toàn bằng đá ong. Tôi
chưa hết sảng sốt thì bỗng đâu một con
cá he lớn như một con heo nái lội tới
trước mặt, rồi... lạ chưa, nói bằng
tiếng người rằng: “Chúa tôi sai mời tráng sĩ
vào dinh”. Dinh nào cà, tôi hỏi trong bụng như vậy, và
càng hoảng sợ hơn nữa. Nhưng tôi cũng cứ
đi theo cá he...
Làm
sao mà tôi đi dưới nước không ngộp, cũng
không bị nước cản, nhẹ nhàng, thong thả
như đi trên đất liền? Tôi theo cá he vào một
cái hang lớn, rộng cỡ mười người chun
vô cũng lọt. Thôi tôi biết rồi, hang Thần Cá Bóng
đây chớ gì.
Bốn
bề hang đều cẩn đá xanh. Hang sáng lờ
mờ, xanh xanh như đêm có trăng, sâu vô ước
chừng khỏi chợ - quả thật lời truyền
khẩu không sai, hang ăn sâu tới chùa Ông - trong ấy tôi
thấy một khoảng rộng sáng gần như ban ngày.
Rõ
ràng là một vương phủ. Dinh cất bằng đá
cẩm thạch, cột chạm rồng cẩn ốc xà
cừ, ngói bằng vảy đồi mồi, lâu năm lên
nước đẹp chưa từng thấy.
Ngai
của Thần Cá Bóng đặt ngay trước thềm
bằng san hô và huyền ráp mối lại rất khéo léo.
Thần
Cá Bóng ngự trên ngai, bên hữu có Thần Bà, bên tả
một vi thần còn trẻ, đứng chớ không
ngồi. Vị thần trẻ nầy trên môi mang một
vết thương còn mới ràng ràng.
Trước
sân, binh tôm, tướng cá hầu hạ đông không
biết bao nhiêu mà kể. Còn hương trầm thì
phưởng phất thơm, nhạc thần vẳng nghe
đâu đó.
Tôi
run sợ quỳ trước ngai thần, bỗng nghe
thần phán: “Nầy! Người kia, ngươi có
biết rằng tội lỗi ngươi chồng
chất đầy dẫy không ? Kẻ hầu hạ
của ta đã hao hớt nhiều, bao nhiêu binh tôm, tướng
cá bị nhà ngươi câu gần hết. Ta đã tâu
với Long Vương và đã được phép xử
ngươi. Ta định bắt ngươi xuống
đây mà trị tội, nhưng chưa kịp thì, may cho
ngươi, hồi sớm đây con ta hóa cá đi du
hồ, vướng phải lưỡi câu của
ngươi, và được ngươi tha cho. Vậy,
ơn nầy đền tội ấy, nhưng ta khiến
ngươi từ bỏ cái nghề bất nhơn ấy
đi”.
Nếu
ngày mai ngươi còn léo hánh trên sông nữa thì đừng
có mong được về với vợ con.
Tôi
vưng vưng dạ dạ không ngớt thì Thần
tiếp: “Muốn nhà ngươi khỏi thiệt hại
điều gì, ta ban cho ngươi một viên ngọc chan
chan. Con chan chan sống không bao lâu, nên không mấy con có
ngọc, mà hễ có thì quí lắm. Nhà ngươi không
được bán, cũng không được khoe với ai.
Để nó trong nhà làm của, tự nhiên làm ăn khá. Thôi
cho nhà ngươi về.
Tôi
lãnh lấy ngọc, cúi lạy tạ ơn Thần rồi
theo cá ra khỏi động. Khi lên tới mặt
nước thì xuồng tôi đã đậu sẵn tại
bến Trâu, khô queo như mới đẩy xuống sông
vậy.
Từ
ngày ấy tôi bỏ nghề câu, xoay ra buôn bán. Mà quả
thật như lời Thần đã dạy, bán món nào
lời món nấy, không bao lâu mà tôi cất được
một cái nhà ngói khá lớn. Còn con thì đứa nào
đứa nấy cũng mập cùi cụi.
Một
ngày kia, buồn quá, tôi xách cần ra bờ sông giựt lòng
tong chơi. Chiều về, nghe trong mình bần thần
rồi đau một trận đau vật tôi gần trót
năm. Vợ con tôi nối tiếp nhau mà chết.
Cửa
nhà, tôi bán sạch để chạy thuốc và lo việc
tang ma. Còn hòn ngọc thì biến mất đi lúc nào không
biết.
Nên
chi bây giờ tôi chỉ đi câu cắm thôi. Bị một
lần tởn tới già. Thứ cá rô, cá lóc nầy là
cá ruộng, có phải của thần đâu mà sợ.
Tôi
rợn người lên vì lạnh hay vì sợ? Bất giác
tôi xách đèn rọi vào mặt ông Ba. Qua những giọt
mưa chảy rười rượi theo vành nón trũm,
tôi thấy miếng ông già gặp Thần Cá Bóng lẩm
bẩm như nói thêm điều gì với ai.
[1] Thuở
[2] Tôi
[3] Tiền kẽm hồi
Tiền Pháp thuộc
[4] Ông đây là ông Bổn Đâu Công,
tức Mã Viện.
No comments:
Post a Comment