Cư xá Valmante
ngày... tháng... năm...
Anh T...
Những ngỡ không bao
giờ còn viết thơ cho anh nữa ! Chắc anh đã
ngạc nhiên trước sự im lặng của tôi
dạo sau nầy, và chắc anh đã hờn tôi, nên tôi cũng
chẳng được thơ từ gì của anh.
Ngày nào chồng tôi vào nhà
thương thăm tôi, tôi cũng hỏi có phong thơ nào
mà bì màu ngà, trên ấy có in riêng hai chữ N.Đ. hay
chăng, chồng tôi lắc đầu. Anh biết, chồng
tôi là người Pháp thì anh ấy không có ghen xằng mà
thủ tiêu thơ của bạn trai của tôi đâu.
Chắc anh đã hơi
đoán được cái gì rồi, khi nghe tôi nói
đến mấy tiếng „nhà thương“.
Vâng, tôi vừa ốm khỏi
anh ạ! Mà cả nước Pháp đều không biết
tôi mắc bệnh gì, cái mới nguy cho chớ!
Không rõ tôi đã hành
động, ăn nói ra sao mà chồng tôi phải đưa
tôi vào một bệnh viện đặc biệt kia mà sau
đó, tôi mới hay rằng đó là bệnh viện La
Timone một nhà thương điên to nhất của
miền Nam nước Pháp do giáo sư khoa tâm bệnh B. làm
giám đốc.
Sau nhiều lần khám
bệnh tôi bằng đủ các phương pháp tối
tân, giáo sư B. cho rằng tôi thuộc loại con bệnh
không cần thuốc men, mà phải được chữa
bằng trị liệu tâm bệnh (Psychothérapie), bởi
bệnh tâm trí có nhiều loại do nhiều nguyên nhân gây ra.
Thật ra thì tôi không có
điên anh T. à, bằng cớ là tôi còn nhớ tới anh và
hỏi thăm chồng tôi về thơ từ của anh.
Tôi chỉ buồn bực, quạu quọ, cau có với
chồng tôi và có những lúc tôi ngồi đó mà như
đi vắng, chồng tôi nói gì, tôi cũng chỉ ừ
hử lấy lệ mà thôi.
Ban đầu anh ấy
tức giận lắm, nhưng sau anh ấy đoán
rằng tôi mắc bệnh tâm trí nên ảnh hành động
theo chiều hướng tin tưởng của ảnh và
quả giáo sư B. đã xác nhận rằng tâm thần tôi
không được bình thường.
Mỗi ngày tôi „bị“ đàm
thoại với giáo sư B. một tiếng đồng
hồ. Đó là thuốc của ông ấy đấy.
Giáo sư B. chọc cho tôi xì
ra những nén tâm, những uẩn khúc của lòng tôi
để giúp tiềm thức tôi có cách tháo củi sổ
lồng cho những ẩn ức trong nội tâm của tôi.
Nhưng chính vị y sĩ lão
thành, suối râu bạc phơ, sang giàu hiểu biết và
kinh nghiệm ấy lại suýt hóa điên vì ông ấy bí
tì,chịu rằng không thể biết tôi mang nặng
những ẩn ức nào.
Biết rằng bệnh mà
không được điều trị thì càng ngày nó càng
tiến triển đến nguy kịch; trong trường
hợp tôi, có thể đến tình trạng điên
loạn, thì còn gì là đời tôi nên tôi nỗ lực
để hợp tác với giáo sư B., không hề
giấu chuyện lớn, chuyện nhỏ nào cả.
Ông ấy lục lạo trong
dĩ vãng của tôi, thám hiểm thuở thiếu thời
và thơ ấu của tôi, tìm biết cả cha, mẹ, ông
bà, tam đại của tôi nữa, không có xó kẹt nào trong
quá khứ của đời tôi từ ba bốn thế
hệ qua mà ông không bắt tôi tự phanh phui ra, nhưng
thật là không có gì cả: hiện tôi đang sống
hạnh phúc với chồng tôi mà những dĩ vãng xa hay
gần mà tôi để lại nước nhà cũng
đều không có gì cho tôi phải xấu hổ thầm
hoặc hối hận.
Giáo sư B. hồ nghi
rằng tôi không thành thật, và đoán rằng tôi có một
bí mật gì lớn lắm mà quyết giấu, nên ông cho
một vị bác sĩ trẻ tuổi, giỏi thôi miên,
đưa tôi vào một giấc ngủ nhơn tạo mà
trong đó tôi phải hoàn toàn khuất phục uy quyền
của các ông ấy.
Thế mà tôi cũng không có
„cung khai“ ra cái gì hết, mặc dầu hai ổng đã hỏi
khéo léo tôi bằng trăm câu hỏi hóc búa trong khi tôi mơ
màng dở tỉnh dở say.
Tôi và chồng tôi lo sợ
lắm, và tôi ngỏ ý muốn tìm bệnh viện cừ
hơn và danh y khác hơn.
Nhưng bạn hữu
của chúng tôi bảo rằng tôi mà có lên Ba-lê, có đi
Đức, đi Áo, quê hương của Freud là ông tổ
của khoa phân tâm học đi nữa, tôi cũng chỉ
sẽ tìm ra được một giáo sư B. II mà thôi, vì
giáo sư B. là một tay cự phách trong khoa tâm bệnh, khét
tiếng ở khắp Âu châu và cả bên Mỹ nữa.
Thật là
khổ cho tôi.
Giáo sư B.
vừa ban bố ơn huệ, vừa bắt buộc
vợ chồng tôi điều này là mỗi chiều
chồng tôi phải vào nhà thương để đưa
tôi đi dạo phố, vì ông thầy thuốc già ấy
không còn biết làm gì nữa cả để giúp tôi.
Con phố mà
tôi thích nhứt là con phố La Canebière đưa thẳng
xuống bến tàu (bến cũ) khung cảnh danh tiếng
của ba vở kịch danh tiếng của nước
Pháp: Marius, Fany và César, cùng một tác giả, một
đầu đề một câu chuyện.
Chồng tôi
cứ tưởng tôi thích nơi đó vì đó là một
con phố xưa, mang nhiều dấu vết lịch
sử và vang danh trong văn chương Pháp với không biết
bao nhiêu là tác phẩm nói đến nó, nhưng sự
thật thì khác, mà mãi về sau, chúng tôi mới biết.
Chồng tôi
muốn nói thạo tiếng Việt nên chúng tôi chỉ
chuyện trò bằng tiếng Việt mà thôi. Một
chiều kia, chúng tôi rảo bước như thường
lệ trên vỉa hè, và tôi hỏi chồng tôi:
- À, anh có cho nhuộm lại chiếc
áo bị bẩn rượu vang của em hay chưa?
Chồng tôi
chưa kip mở miệng để thốt ra tiếng nào
thì thình lình có một lão Tây già ồ, già ghê đi, chỉ kém
già hơn vị giáo sư đã chữa bệnh cho tôi mà thôi,
lão ta từ đâu không rõ, nhảy đến chận
đường vợ chúng tôi mà nói bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi bà, bà làm ơn lặp
lại câu mà bà vừa nói với ông.
Vợ
chồng tôi kinh ngạc, trố mắt mà nhìn lão Tây già
nầy, không rõ anh ấy nghĩ gì chớ riêng tôi, tôi cho
rằng lão ta cũng là thân chủ của bệnh viện
La Timone, bệnh lão ta tái phát mà người nhà lão ta chưa
kịp đưa lão ta trở vào đó.
Chiều nay
sao mà chồng tôi vui tính và dễ tính quá. Anh ấy nói:
- Em cứ thỏa mãn ông ấy
đi.
Tôi y lời
chồng, nói lại câu chuyện nhuộm áo bằng ngôn
ngữ của mẹ tôi.
Lão ta nghe xong
reo lên:
- Đúng rồi, bà nói nghe như hát.
Đúng là bà ở xứ ấy mà đến đây.
Nói xong lão ta òa
lên mà khóc rấm rứt rất lâu, rồi mới thổn
thức giải thích:
- Tôi tin chắc rằng bà là
người Việt nam. Cái lối nói nghe như nhạc
ấy, tôi không thể lầm với ngôn ngữ của dân
tộc nào khác cả, mặc dầu vì lười, tôi không
có học tiếng của bà.
Chẳng nói
giấu gì ông bà, tôi đã sống bên ấy suốt ba
mươi năm, từ thuở thanh xuân của tôi
đến lúc tôi về hưu, vâng, tôi là giáo sư toán pháp
ở Lycée Chasseloup-Laubat. Về hưu, tôi vẫn ở
lại đó để dạy tư, không phải vì còn ham
hoạt động mà vì tôi đã quá quen với những
chơn trời ở bên ấy, đã thương mến
những chơn trời ấy rồi thì hồi
hương, tôi lại nghe mình bỡ ngỡ, lạc
hướng.
Nhưng
rồi tôi vẫn phải hồi hương vì tôi đã
hoảng hốt khi thấy quân đội Pháp triệt
thối. Không, tôi không phải là thực dân, nhưng vẫn
bị mặc cảm vì một số đồng bào
của tôi quả đã tỏ ra không xứng đáng.
Từ ấy
đến nay, trên mười năm rồi, tôi nhớ
xứ Việt nam không nguôi, và ngôn ngữ và giọng nói của
bà mà tôi chợt nghe lúc đi qua đây khi nãy, như bỗng
đưa lại hương vị xa xôi của cái
đất mà tôi không mong trở lại.
Trời, tôi
bị xúc động không biết bao nhiêu, ông bà ơi!
Thình lình tôi
nắm lấy tay chồng tôi rồi chạy đi, anh
ấy trì lại thế nào cũng không được
với tôi.
Bấy
giờ, kẻ sợ người điên là lão giáo sư già
ấy, chớ không phải là tôi nữa, vì trừ phi
nổi cơn điên thình lình mới hành động
một cách bất lịch sự với người có
tấm lòng như lão ấy, chớ còn một kẻ bình
thường, tệ lắm cũng mời lão ta vào quán giải
khát để nói vài ba câu chuyện.
Chúng tôi
chạy được một thôi đường thì tôi
mệt lả người, dừng bước lại
để thở hổn hển. Chồng tôi mắng tôi:
- Em thật là điên. Lão ấy
bị bỏ rơi như thế, anh nghe tội nghiệp
lão quá. Sao em lại sợ lão ta một cách vô lý như
vậy?
- Không anh à! Có chuyện quan trọng.
Đến
phiên chồng tôi ngỡ tôi điên, nên hơi lo lắng.
- Em nên bình tĩnh. Để anh
gọi tắc xi đưa em về bệnh viện.
- Ừ, em phải về đó ngay
để báo tin với giáo sư B. rằng em đã
khỏi bệnh rồi.
Chồng tôi
hơi khổ lòng mà thấy bệnh của vợ mình
trở nặng thêm.
Khi tôi thấy
mặt giáo sư B. tôi chạy a tới, ôm lão, khóc ra
những giọt lệ sung sướng mà rằng:
- Giáo sư
ơi, con đã biết bệnh con rồi.
Ông lão ấy
nhìn chồng tôi, nheo mắt mà cười hóm hỉnh,
tỏ vẻ hiểu cái gì, rồi hỏi:
- Thế à? Có phải là con ghen bóng,
ghen gió, và đã được chồng của con giải
thích, đã phá tan ngộ nhận của con hay không ?
- Không, thưa giáo sư, con chỉ
sầu xứ mà thôi.
Ông lão râu tóc
bạc phơ này đưa cả hai tay lên trời rồi
reo lên:
- Chúa ơi! Lão thật ngốc quá !
Chỉ có thế mà lão không hề nghĩ đến.
Đúng là như vậy rồi. Theo hồ sơ thì bà có Pháp
tịch, thế nên lão mới quên mất rằng bà gốc
người ngoại quốc.
- Nhưng thưa giáo sư, chồng
tôi hỏi, sao lúc bị thôi miên, vợ tôi cũng không cung
khai ẩn ức đó?
- À,
điều đó thì bà ấy nên tự phân tách lòng bả
xem sao. Chắc bả sẽ giải thích được
điểm kỳ dị ấy.
Giáo
sư B. bắt tôi ở lại thêm vài hôm vì người
chưa dám chắc rằng tôi đã khám phá ra sự
thật.
Nhưng
quả tôi vui và yêu đời trở lại, và rất bình
thường trong mọi việc, nên ba hôm sau, ông ấy cho
tôi về, không quên căn dặn tôi trở lại khi nào tôi
biết được do đâu mà tôi giấu sự
thật, cả lúc tôi bị thôi miên nữa.
Một
tuần lễ qua, mà tôi chỉ tìm được có một
sự thật thôi, nhưng là sự thật khác.
Trên
bước đường đi dạo mát với
chồng tôi mỗi hôm, hai chơn tôi bất giác tiến
về phố La Canebière, vì con phố ấy đưa
xuống bến tàu, mà bến tàu Marseille là nơi gần quê
hương của tôi nhất, nơi mà tàu bè nhổ neo
để đi Viễn đông, nên tiềm thức tôi xui
tôi về nơi đó. Một tuần lễ sau nữa, tôi
mới đi viếng giáo sư B.
- A, chào bà, ông ấy reo lên. Tôi trông
vẻ tươi tắn trên gương mặt bà, tôi
đoán rằng bà đến để giải thích cái gì,
chớ không phải để xin làm thân chủ của tôi.
- Thưa giáo sư, đúng như
vậy.
- Nào, mời bà dạy thêm tôi một
bí mật của khoa tâm bệnh mà tôi còn dốt.
- Không dám. Nhưng sự thật là
như thế này, thưa giáo sư. Sở dĩ tôi đã
giấu nhẹm ẩn ức sầu xứ, nhớ nhà,
không chịu cung khai ra trong giấc ngủ thôi miên là tại
chồng tôi...
- Trời ơi, sao mà chồng bà
lại quá gắt gao đến đỗi cấm vợ
nhớ nhà ?
- Thưa không, nếu anh ấy
cấm thì đó mới thật là ẩn ức và tôi đã
xì ra rồi, khi tôi bi thôi miên. Nhưng anh ấy không hề
ngăn cấm, trách cứ, mà lại thuyết phục tôi.
Anh ấy
thuyết phục giỏi đến thế nào mà cả
tiềm thức tôi cũng tin rằng tôi không sầu
xứ, nhớ nhà, và ẩn ức phải bỏ tiềm
thức, lùi vào trốn trong tâm để (tréfonds) thế nên
rất khó mà bắt được nó.
- Giỏi, ông ấy thuyết
phục làm sao?
- Thật ra thì chẳng có gì. Nhơn
một hôm tôi tâm sự rằng tôi nhớ quê hương
lắm, anh ấy hơi hơi ngạc nhiên rồi nói: “Em
đã ưng lấy anh, đã nhập Pháp tịch, đã
bằng lòng theo anh sang đây thì anh ngỡ rằng em đã
cân nhắc kỹ lưỡng rồi, mà hễ chọn xong
là dứt khoát”.
Thưa giáo
sư,chồng tôi nói không đúng về sự dứt khoát
là không còn nhớ quê hương nữa, nhưng vì tôi
ngỡ anh ấy nói đúng nên cố gắng nhiều
để tin chồng tôi nên trong thâm tâm, tôi vẫn tin
như vậy được. Chính vì thế mà ẩn
ức bị đẩy vào sâu hơn chăng?
Vị giáo
sư già gục gật đầu, vừa vuốt chòm râu
bạc,vừa suy nghĩ, rồi giây lâu, ông nói:
- Có những tâm hồn
cốt-mô-bô-líc (tĩnh từ Pháp của vị giáo sư
già nầy, tôi xin tạm dịch là tâm hồn đô thị
và quốc tế), những người mà tâm hồn như
vậy, họ rất thoải mái như cá trong nước
khi họ chạy từ thủ đô của quốc gia này
đến thủ đô của quốc gia khác, mỗi
chỗ họ sống qua vài tháng, không gắn bó với
đô thị nào hết, hoặc người của đô
thị nào hết nhưng lại rất ưa những
người ấy trong một lúc, rồi ra đi, không
luyến lưu, cũng không để lại cái gì cả.
Trái lại, có
những người trung thành đến trọn
đời với những chân trời quen thuộc,
nghiện ngập mùi vị, màu sắc, âm thanh của
nơi họ sanh trưởng, một vùng quê hay một
thành phố nhỏ. Bà thuộc hạng người thứ
nhì, bà khó lòng mà dứt khoát.
Nhưng bà
đã truy nã được ẩn ức của bà thì
từ đây nỗi sầu xứ của bà chỉ là
một nỗi sầu xứ thôi, chớ không còn là một
bệnh nữa.
Có những
mối sầu không nguôi, nhưng người ta sống
với những mối sầu ấy, vui với mối
sầu ấy, nói ra thì nghe hơi mâu thuẫn chớ
quả con người đã vui được với
những mối sầu, những niềm đau mà
người ta cất kỹ để được
vuốt ve cho đến trọn đời... chẳng
hạn như một niềm đau vì tình.
Vị giáo
sư già nầy nói tám tiếng sau cùng, sau một hồi im
lặng, rồi ông ngó mông vào khoảng không, vẻ mặt
xa vắng vô cùng, khiến tôi không sao mà khỏi nghĩ đến
một cuộc dứt tình nào, cách đây mấy mươi
năm của một sinh viên y khoa kia.
Lâu lắm, ông
ấy mới nhớ lại rằng ông đang có khách. Ông
cười mà rằng:
- Nhưng, cốt là khỏi
bệnh, và chúc bạn vui mãi mãi với gia đình.
Ông đưa
tay ra và tôi nghe hơi thương con người đã có
một niềm đau ấy cũng như tôi đã
thương tôi vì không nguôi được với niềm
sầu xứ của tôi.
Sướng
nhé! Anh T. ơi, giờ tôi mới tìm lại được
chính tôi, mới dám can đảm “làm tôi”, dám nhớ quê
hương thả cửa.
Miền Nam
của nước Pháp ve nhiều quá, và sở dĩ tôi mang
bệnh có lẽ tại nhạc ve của mùa nầy, nó gợi
nhớ không thôi, xứ sở của ta.
Chồng tôi
đưa tôi đi xem cây chuối độc nhứt còn
sống được ở miền Nam nước Pháp.
Cây chuối
nầy trồng cạnh cung điện của ông Hoàng
xứ Monaco trên con đường đi từ Nice
đến Menton.
Cây chuối có
chiếc gậy màu đưa tôi trong phút giây, về quê
hương yêu mến ấy, coi vậy mà không huyền
diệu bằng cái ao rau muống của bà phán Như
Ngọc ở Toulon mà chồng tôi cũng đưa tôi
đi xem sau đó.
Vừa trông
thấy ao rau muống là nước mắt tôi chảy ròng
ròng, nhứt là cạnh ao bà phán lại trồng nào là ngò, rau
om, rau răm mà cái mùi Việt nam của nó “ngàn năm
chưa dễ đã ai quên”.
Anh T. nhà quê
ơi, rất nhiều lần anh nói với tôi là anh không
ưa Đà lạt, vì phong cảnh Đà lạt không
phải là phong cảnh Việt nam. Tôi đã chế giễu
anh, nhưng giờ, tôi mới thấy là anh hữu lý. Xin
lỗi nhé người bạn trung thành với nước
mắm !
Anh à, đây là
tâm sự cuối cùng, một thắc mắc lớn lao
của tôi, xin anh nghiền ngẫm.
Không có tâm
hồn “cốt-mô-bô-líc” tôi lại lấy chồng ngoại
quốc nên niềm đau của tôi khiến tôi
thương không biết bao nhiêu những đứa con
Việt nam của những cặp vợ chồng sinh viên
Việt nam, cả chồng lẫn vợ đều
Việt.
Vì lẽ riêng
gì của họ không rõ, họ không chịu về
nước và những đứa con ấy sẽ còn
khổ hơn tôi không biết bao nhiêu, khi chúng lớn lên.
Chúng nó sẽ
về đất mẹ, và đáng lý vì được
toại nguyện, chúng sẽ nhớ không nguôi và một cách
ngược đời quê hương của người
khác.
Vâng, đúng
như vậy. Sách vở dạy chúng phải yêu
nước Việt nam, nhưng lòng chúng chỉ có thể
yêu nước Pháp mà thôi. Trí và lòng chúng khó lòng mà đi
đôi với nhau được vì yếu tố chánh
của tình yêu quê hương, không phải là ý thức vì
dòng máu, mà là tình gắn bó vào thuở thiếu thời
với những chân trời quen thuộc, với màu
sắc, mùi vị, âm thanh mà tuổi thơ quen thấy, quen
nếm, quen nghe.
Sẽ có
hằng vạn người Việt nam mang tâm hồn Pháp,
cũng như hiện đang có một phụ nữ Pháp
mang tâm hồn Việt nam là tôi. Thật là oái oăm cho thân
phận con người !
Nhưng tôi
chỉ là một, không đáng kể. Cái số vạn công
dân Việt nam mang tâm hồn Pháp ấy, sẽ là những
công dân bỡ ngỡ, mà đáng ngại nhứt là họ
sẽ là những phần tử ưu tú của
nước Việt nam ta. Họ là cháu nội, cháu ngoại
của những nhà giàu hiện nay, họ sẽ được
đi học tới nơi tới chốn, sẽ là
những chuyên viên cần thiết, nếu ngày kia họ
chiếu cố đến đất tổ của họ.
Không thể
nào hình dung nổi một nước Việt nam mà cấp
lãnh đạo lại có tâm hồn ngoại quốc, không
biết nước Việt nam ấy sẽ giống cái gì,
chưa hề có tiền lệ trong lịch sử thế
giới.
Thân chào anh T.
nhé, và xin gởi về xứ Đồng nai tất cả
tấm lòng tôi.
(Cuống rún
chưa lìa)
No comments:
Post a Comment