Bình
Nguyên Lộc
Một
khối đen đùn lên ở chân trời phía Đông Nam.
Thầy giáo lấy tay che mắt, vì nắng sớm chói lòa,
để theo dõi cây khói, cứ mọc lần lên cao ấy.
Khói mọc
lên, tức là một chiếc tàu sắp đến gần
bờ, mà khi tàu ở Đông Nam đến, thì là tàu
tuần rồi. Những chiếc tàu ở Pháp qua,
đều ở Tây Nam lại.
Gần
một tháng nay, không có chiếc tàu nào chạy qua lối đây
cả. Nên chi thầy giáo nghe vui rộn lên, như là
thấy dáng bạn đằng xa.
Bạn?
Ừ,
bạn, bạn thực đó, mặc dầu thầy giáo
biết rõ ở trong nội địa, người ta xem
tàu ấy và người trên tàu là thù.
Thầy giáo
đã hờn một người, rồi hờn luôn cả
loài người. Thầy trốn ra đây đã hăm hai
năm. Không đứng bộ đinh của làng nào trên
nước Việt Nam nữa, thì nước Việt Nam
đó đánh nhau với ai, thầy không mảy may sốt
ruột, và không xem “ai đó” là kẻ thù.
Đây là hòn
Củ Tron, nói đúng ra là một đảo trong quần đảo
Củ Tron. Hòn nầy, thật ra, gồm đâu lối hai
mươi hòn đảo nhỏ.
Vịnh Thái
Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam, chi chít những
đảo là đảo, như có đứa trẻ tinh
nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải trên
một cái ao con. Đảo ấy xúm xít lại với nhau từng
chùm, thành nhiều bầy đảo riêng mà người dân
trong nội địa, để đơn giản hóa, xem
mỗi bầy như là một hòn duy nhứt và chỉ
đặt một tên thôi.
Tại sao
lại có sự đào ngũ nước nhà và loài
người nầy? Có gì đâu? Thật trẻ con và
buồn cười hết sức, thầy giáo đã
thất vọng vì tình mà lại. Rõ là:
“Một người làm đĩ,
xấu danh đờn bà!”.
Lời
tục không sai.
Một
người đờn bà đã phụ thầy, chỉ có
một người thôi, thế mà thầy oán tất cả
giống đờn bà, rồi oán lây cả loài
người.
Thầy kêu
đời là giả dối, người là xấu xa và
đâm ra ngâm toàn thơ yếm thế và mê cảnh làm
bạn với hươu nai trong những bài thơ đó.
Ban
đầu, thầy định vào núi tu, nhưng trên
Bảy Núi thì đang lắm ông đạo lăng nhăng,
ông đạo Nằm, ông đạo Lết, ông đạo
Huế, ông đạo Hù. Vả lại, thỉnh thoảng
có những bà mộ các ông đạo ấy lên hành
hương, thì cuộc đụng chạm với “những
con ác quỷ” làm sao dứt được.
Những hòn
đảo xa, xanh tím nơi chân trời ngoài kia, có những
sự tích huyền ảo đối với người trên
bờ, họ truyền miệng nhau mớ chuyện
thần tiên ấy từ thế hệ nầy qua thế
hệ khác.
Nên chi, bầy
đảo chốn hải giác thiên nhai, vốn đã
quyến rũ thầy từ thuở bé, bấy giờ, khi
lòng thầy nát ngướu vì sự phản bội của
một người đờn bà, nó lại kêu lên cái
tiếng gọi xa xăm và quyến rũ của nó.
Ra tới
quần đảo Củ Tron, thầy mới nhận ra là sống
một mình không được, hay được mà
khổ biết bao nhiêu. Vì thế, thay vì ở biệt tích
trên một hòn hẻo lánh, thầy tá túc nơi một cù lao đông
tám gia đình.
Thầy ta
bỏ tên cũ, và dân đảo chờ mãi không nghe thầy
xưng tên, mới kêu thầy là thầy giáo, và chức
thầy giáo biến thành tên thầy từ đó.
Về vật
chất, con người ở đây lùi về đời
sống cổ sơ, tự làm lấy mọi việc, ít
khi trao đổi hàng hóa với nội địa. Nhưng
thứ nhứt là về mặt tinh thần. Cùng một
nhịp với cuộc sống, họ cũng bỏ
rơi lần lần những phiền toái xã giao về tình
cảm, về ý nghĩa của một xã hội văn
minh. Đời người, nhờ thế, mà ít bị ràng
buộc biết bao.
Cây khói mọc
lên cao, rồi ngã đầu dưới gió sớm, rồi
ống khói tàu nhô lên. Trông từ xa, ống khói và làn khói
giống như một cây đuốc, mà người
cầm còn núp ở đâu dưới hố sâu.
Lần
lần cả chiếc tuần dương hạm dình dàng
bò lên trên góc biển hình tròn; đó là tế nhận tinh vi
dưới hai con mắt biết khoa học của
thầy giáo.
Nối
đuôi tuần dương hạm là năm chiếc
tuần hải ngạn nhỏ, trông như một con heo
mẹ ột ệt dắt một bầy heo con.
Còi tàu hú vang
rền, xịt khói dày đặc, rồi dừng lại
ngoài khơi.
Không trông
thấy rõ gì, mà thầy giáo vẫn biết họ
đương hạ thủy những chiếc xuồng
máy.
Cảnh
nầy, độ ba tuần, lại diễn lại
một lần. Lần đầu, cách đó mười
năm. Thâm ý của Hải Quân Pháp là dòm ngó xem trên các
đảo hẻo lánh ấy có Việt Minh hay không. Nhưng
dân ở các đảo, và cả thầy giáo nữa,
lại ngỡ là họ ghé xin nước, xin trái cây.
Không chiếc
xuồng máy nào vào bờ mà không mang theo bơ, sữa,
súc-cù-là, kẹo, bánh. Người dân ở đảo
ngỡ đó là quà trao đổi, nên biếu lại
nước suối ngọt, chuối, dừa. Thủy quân Pháp
vui lòng nhận quà đó, để gây thân thiện. Rồi
khi dòm ngó thấy dân chúng chất phác làm ăn, họ
trở ra khơi. Nhưng thỉnh thoảng họ vẫn
trở lại. Thật là một sự xem chừng kiên
nhẫn.
Nhờ
thế, thầy giáo biết rằng, dân ta đã
đứng lên kháng Pháp. Lòng trần chưa gội sạch,
nên khi nghe tin nầy, thầy nôn nao mấy hôm. Nhưng mà
dứt là dứt! Ôi, đau như hôm vĩnh biệt đất
liền, quyết tâm quên người yêu và thỉnh
thoảng day lại nhìn ngọn cau ngả nghiêng
dưới gió. Niềm đau vận nước hôm đó
cũng ray rứt như là cuộc phân vân ngày đi.
Thật là “linh đinh nửa nước, nửa dầu”.
Nhưng thôi, dứt là dứt hẳn!
Khi xuồng
máy cày mặt biển, lủi gần tới bờ,
thầy giáo vội vàng rời chỗ nhắm, trở
về xóm để báo tin cho người ta đủ ngày
giờ đốn chuối, hái dừa.
Dưới
xuồng chỉ có một Tiểu Đội thôi, nhưng
tới tám người lính và viên Đội Trưởng
lên bờ, mà họ lên tay không. Ngày thường thì họ võ
trang tới chơn tóc, kẽ răng, và ở lại
dưới xuồng đông hơn để ngừa nguy
biến.
Thầy giáo
làm thông ngôn. Bọn thủy thủ cũng chào hỏi vui
vẻ như mọi lần, nhưng sắc mặt hơi
buồn. Viên Đội Trưởng nói:
- Tôi đến đây lần
cuối cùng, để từ biệt các anh.
- Anh đổi đi
nơi khác à?
- Không.
- Vậy thì làm sao?
- Hiệp Định
Giơ-neo, các anh biết chớ?
- Có, có nghe anh nói.
- Sau Hiệp Định
đó, chúng tôi ngỡ còn được ở miền Nam.
Nhưng chính phủ anh yêu cầu chúng tôi rút lui toàn diện.
- Vậy hả?
- Bây giờ thì các anh
độc lập rồi đó, không còn nói ra, nói vào gì
được nữa. Anh có về đất liền không,
anh Giáo? Về mà hưởng độc lập.
- Không!
- Thế ra, cái chuyện
ngày xưa ấy, cái chuyện xui anh trốn ra đây
ấy, là chuyện lòng thật sự, quả như anh
đã nói. Từ thuở giờ, chúng tôi ngỡ anh nói
dối và vẫn xem chừng anh đấy.
Bọn lính
thủy cười rần rần; một anh đưa
cánh tay ra, trên da có xâm quả tim bị mũi tên xuyên ngang,
máu chảy có giọt, mà rằng:
- Đây, tình đau khổ! “Ẻn”
đã đập nát quả tim tôi, vậy mà tôi có thèm đi
đâu. Hay nói cho đúng ra, tôi có đi, tôi đi cùng khắp
bầu trời, để tìm nhiều “ẻn” khác, và tìm
được dễ dàng.
Nhưng
thầy giáo vẫn điềm nhiên:
- Thôi, vĩnh biệt!
- Vĩnh biệt!
- Vĩnh biệt!
Bọn
thủy thủ bắt tay từng người, rồi mang
quà trở xuống bờ biển.
Cả
đảo đưa họ, rồi về nhà, trừ
thầy giáo. Thầy đứng nhìn xuồng cập tàu,
nhìn cột sắt đen vẽ nét đứng, nét ngang trên
nền trời xanh lơ, và nhứt là lắng nghe tiếng
còi thét lên trong không gian, gợi nhớ những chuyến
đi, những cảnh non nước xa lạ, mà thầy
mơ thuở còn bé, và bây giờ, mặc dầu đã ra đây
rồi, vẫn còn mơ cái kỳ ảo của viễn
phương.
Dứt là
dứt! Tuy thế, cuộc hội kiến hôm nay vẫn làm
huyên náo lòng thầy giáo như cái tin khởi nghĩa
mười năm xưa. Vận
nước thịnh, suy, hưng, vong triều đại,
đó là những điều mà ta khó lòng dửng dưng
được, và không thể đặt điều
ấy ngang hàng với một câu chuyện tình.
Nhưng thôi,
dứt là dứt!
Khi mấy con
tàu chỉ còn bằng mấy cái vú cau mà trẻ con thả
chơi trên bể cạn, thầy giáo quay lưng đi vào
xóm, nhưng không ghé đó, lại đi thẳng ra bãi
biển nghịch điểm.
Thầy
đẩy xuống nước một chiếc thuyền
độc mộc nằm phơi nắng trên bãi cát, rồi
thót lên ngồi trên đó.
Giữa
những cù lao trong quần đảo Củ Tron, là
những vuông biển nhỏ im lặng như mặt hồ.
Bơi xuồng trên bao nhiêu là hồ ấy, đi từ
đảo nầy qua đảo kia, là cái thú vui vô song nhắc
nhở cảnh người xưa chu du năm hồ,
bốn biển, cảnh Từ Thức chèo thuyền
chợt gặp Đào Nguyên.
Nhứt là
những hòn đảo nầy là những hòn non bộ thiên nhiên,
mà trong đất liền, nghe nói, ai cũng thèm nhểu
nước miếng.
Đảo
đá vôi lồi lõm những gộp đá hình thù kỳ
dị, những hang non hiểm hóc, và những động
là là mặt nước, trông như cửa động
đào; gộp đá vôi thì mỗi gộp mỗi màu, trên
ấy mọc lên những cây lùn, mà hình dáng lại cằn
cỗi như cổ thụ, và tất cả soi bóng, in hình
một cách trung thành, đầu lộn ngược, trên mặt
biển đang nhạt màu trời và phẳng như
gương.
Hạ nhẹ
mái giầm, thầy giáo nhìn một sườn non và nhớ
lại cái mộng của mình, là xây ở lưng chừng
sườn non ấy một ngôi chùa, mái cong, lợp
bằng ngói sứ nhiều màu. Ngôi chùa ấy, vài năm
sẽ xanh rêu, và ngồi ở dưới xuồng trông lên,
y hệt như ngắm non bộ, để rồi mơ
đến hình ảnh nước Tàu ngày xưa,
nước Tàu cổ kính trong tranh: một ngôi chùa cổ
cheo leo trên sườn núi, trong rừng sâu, chiếc cầu
đá bắt ngang sơn khê, bên cầu, hai tu sĩ, tóc, râu
dài chảy trắng xuống như thác nước
đổ, đang ngồi đánh ván cờ muôn thuở.
Thầy giáo
bơi xuồng độc mộc từ hòn nầy qua hòn
khác, cho đến lúc hoàng hôn nhuộm tím chân trời và
mặt nước.
Mấy lúc
nầy, thầy hơi mệt - đã năm mươi rồi,
còn gì nữa! - nên chỉ làm lấy lệ, cho có mà sống
lây lất qua ngày, và cho dư thời giờ đi dạo
thả cửa như vầy.
Năm
mươi ! Trời ơi, đã hăm hai năm
rồi, thành tiên trong động vắng thì chưa thành, mà
lòng trần vẫn còn xao động, mỗi khi một ngọn
gió xa thổi đưa sóng đời tới.
Còn sống
mấy năm nữa đây, rồi sẽ giã từ hẳn
mọi thứ, kể cả đời sống cổ
sơ bình dị nầy? Chắc cũng chẳng bao lâu, vì thầy
giáo nghe trong người yếu lần. Năm mươi
là khúc đường quanh, bước qua là nghe khác nẻo
đi vừa bỏ, hễ dang nắng, dầm mưa là
nghe muốn ể mình.
Lại còn!... Thầy
giáo nghĩ tới đây, thì buồn đến muốn nhảy
xuống biển cho rồi.
Ở đây,
người dân sống tập thể trong nhiều
điểm: thí dụ cất nhà, đốn gỗ
để mổ xuồng, cuốc đất, trồng
khoai, vân vân... Mấy lúc nay,
thầy nghe yếu trong người, nên tự buông tha mình
khỏi những khổ dịch vần công.
Người
trong đảo, ban đầu, nhìn thầy bằng
những cái nhìn trách móc, rồi sau đó, khinh thầy ra
mặt. Thì ra, cũng còn vướng loài người
với những ràng buộc phiền phức.
Đêm ấy,
thầy giáo nhức đầu như có hai khúc gỗ
kẹp hai bên màng tang, rồi ai đó chơi nghịch,
siết chặt hai khúc gỗ lại. Ác mộng liên miên
tới sáng, rồi lên cơn sốt. Rõ ràng là cảm thử.
Ở đây,
người ta sống như người Thượng
Cổ, hay như người sơn cước ngày nay. Ai
có sức khỏe thì lướt khỏi bịnh tật. Lướt
được là đi hết đường đời
tới khi đầu bạc. Ai không dẻo dai là chết
quay ra.
Nhưng
trường hợp của thầy giáo chưa xảy ra
bao giờ: không lăn đùng ra mà chết, cũng chẳng
khỏi cơn sốt liên miên.
Người
ta đến thăm thầy giáo trong ba ngày đầu,
rồi thôi. Một mụ hàng xóm, thương tình, nấu
khoai, phần chia của thầy, cho thầy ăn
đỡ dạ trong năm ngày. Nhưng khoai của
thầy hết sạch. Người ta nuôi thầy bằng
khoai hàng xóm, trong nửa con trăng.
Thầy
hết sốt nhưng vẫn nằm liệt. Một ông
lão còn sõi, nhìn thầy rồi lắc đầu:
- Không thế khỏi. Như là
bại, xụi ấy mà! Nằm riết đến thúi
xương là chết !
Vậy,
ra đây là một cái miệng vô ích.
Không giận
ghét thầy, người ta vẫn không lui tới nữa. Cái
miệng vô ích, kể như chết rồi. Không giết
đó là may, ai hơi đâu mà nuôi mãi.
Sau hai ngày vắng
khách. Thầy giáo bỗng hiểu và thầy bỗng rợn
người lên khi nghĩ đến câu chuyện rung cây
dừa, mà thầy được biết thuở bé, khi
đọc địa dư.
Ngoài khơi
Thái Bình Dương có những hòn đảo thần tiên, mà
dân trên đó, suốt ngày, ca hát, vui chơi. Khi một
người chủ gia đình trở nên già yếu, họ
bắt y leo lên ngọn dừa, rồi áp nhau mà lung lay
gốc cây dừa ấy.
Người
leo cây, nếu bám chặt được, là sẽ sống
thêm ít lúc. Bằng rủi tay rơi xuống, thì họ cho
ngay hắn ta là một cái miệng vô ích, cần phải cô
lập một nơi cho chết đói lần mòn.
Rung cây
dừa! Thế ra, là mình bị họ rung cây dừa đây!
Sống
cổ sơ bình dị ! Thú biết bao, mộc mạc
thong thả biết bao! Nhưng cũng giống thú vật
biết bao. Con thú đầu đàn, khi vồ hụt
mồi lần đầu là bị đàn coi là hết
khả năng, bị thay thế ngay, rồi bị
thịt ngay.
Sống
cổ sơ bình dị! Có làm mới có ăn, già nua là không còn
hay ho gì nữa! Xã hội chỉ nuôi những cái miệng
hữu ích thôi!
A ha !
Đó là một xã hội thú vật, cóc cần tình cảm,
cóc cần tình thương đối với lớp “người
trái chanh”, lớp người bị vắt hết cả
nước cốt trong thời niên thiếu để dâng
lên đoàn thể, và bây giờ chỉ còn trơ lại cái
vỏ khô như xác ve.
Thầy giáo
gượng dậy, lết cùng nhà và may sao, tìm
được hũ khoai mà mụ láng giềng không
thấy. Thầy ăn khoai sống mấy hôm.
Muốn về
đất liền lắm, lần nầy. Nhưng ở
đây thì không dung miệng vô ích, còn ở trong ấy, thì
lại dung quá nhiều miệng vô ích. Không phải miệng
lớp già, mà là những miệng ký sinh nhân. Chán thay,
chạy ô mồ mắc ô mả, bây giờ muốn chạy
thầy cả, lại ngại mắc thầy con.
Ở đâu
hợp lý tưởng bây giờ để được
dung thân buổi xế chiều của một cuộc
đời, tuy lánh mặt, nhưng vẫn hữu ích?
(Nếu không hữu ích thì cuộc đời ấy hẳn
đã phải bị rung cây dừa ngay từ thuở
mới ra đây).
Ngày xưa, sao
mà quyết định quá dễ, dứt tình với
người yêu, với loài người như dứt
sợi bòng bong đeo trên rào. Bây giờ nó trợn trạo
như là xuống không lọt, mà lên lại chẳng thông.
Quá nửa
đời người rồi, và vào đoạn
đường ấy, con người ngại trở
bước lắm chăng?
“Mà
ngươi, ngày xưa đã từ bỏ tất cả,
cả những cái lớn lao, lẽ gì ngày nay lại không
dám đánh rơi một khu sống không dung tha tình cảm,
một khu sống mà người ta siêng năng để
mà sống, như đàn kiến. Chỉ có thế thôi. Và
như đàn kiến, con nào ngã dọc đường, thì
mặc thây nó, không ai hơi dâu mà ngừng lại nhỏ cho
vài giọt nước mắt, để cho rối
trật tự của đoàn đang đi”.
- Mầy phải chọn, thầy
giáo Lầu ơi!
Thầy giáo
khiển trách mình và bất giác gọi đến cái tên, mà
hăm hai năm nay thầy bỏ hẳn.
Thầy
giật nẩy mình. Tên ấy vang lên như một giọng
nói của một người thân yêu, dội trở
lại với một hình bóng mờ xa của những
người biết thương, thương nhiều quá,
thương đến cả kẻ thù, đến cả
những cái miệng hoàn toàn vô ích.
Lần
thứ ba, lòng giáo Lầu huyên náo. Nhưng lần nầy, thầy
không thản nhiên được, sau trận dao động
đầu tiên.
Tiếng vang
của mối tình đến, rồi tan trong gió.
Tiếng vang
vận nước thoảng qua, rồi tắt lần trong
thờ ơ của người yếm thế.
Nhưng
tiếng vang của loài người, của xã hội
văn minh lại kêu réo như tiếng còi tàu thỉnh du.
Còi tàu vẳng đưa lên hình bóng nước non xa lạ,
còn tiếng con người lại nghê nga chơn trời
cũ, bóng bạn xưa, không thúc giục như còi tàu,
nhưng lại thỏ thẻ, nỉ non, dai dẳng như
lời mời nhẫn nại của một người
nhiều hảo ý và thiết tha đón khách.
Sáng hôm sau,
một chú Lỗ Bình Sơn tân thời, đầu bù, tóc
rối, bơi chiếc xuồng độc mộc trở
vào bờ, bịn rịn cù lao rung dừa nhưng lại
háo hức hơn, vì mơ mảnh đất liền,
biết thương đến con bò già, không kéo cày
được nữa.
No comments:
Post a Comment