Bình - nguyên Lộc
Nỗi
khổ của tôi bắt đầu từ hôm bíc-níc ấy.
Tôi có mang theo bánh mì, lạp xưởng và nước trà
nóng đựng trong bình thủy, nên khỏi phải làm
việc. Chính anh Minh, ba của con bé Liên của chúng tôi,
đã đòi hỏi như vậy, anh ấy cho rằng
ăn bánh mì tuy không ngon bằng ăn cơm nhưng anh
ấy không muốn thấy tôi cực nhọc cả trong
ngày nghỉ cuối tuần nữa.
Chúng
tôi câu cá tại bờ con rạch nhỏ, nơi mà chúng tôi
cắm trại, trong khi bé Liên đuổi bướm và
bắt chuồn chuồn. Thật ra thì câu cá chỉ là cái
cớ để vợ chồng chúng tôi tắm nắng
một cách nên thơ vậy thôi chớ hình như là cá nó
thù, hoặc nhờm chúng tôi hay sao ấy mà không bao giờ
chúng nó cắn câu của vợ chồng tôi. Vả, nếu
may mắn (hay rủi ro?) mà được cá thì chắc anh
Minh, anh ấy sẽ bối rối ghê lắm vì một
mặt anh ấy cưng vợ, một mặt anh ấy
tiếc cá, cứ muốn bắt tôi kho hay chiên gì đó.
Ấy,
anh Minh hơi gàn gàn, nhưng tôi không dè mà anh ấy lại
gàn đậm kể từ hôm đó.
Chẳng,
sau hai tiếng đồng hồ làm ông già sông Vị, anh
ấy đâm chán và rủ tôi vào xóm. Đi thì đi, bởi
tôi cũng nghe da mặt nóng lắm rồi, má tôi rát rân lên vì
bị nắng đốt nhiều giờ rồi.
Trên
con đường mòn ngoằn ngoèo đưa vào cái ấp
lớn thoáng thấy đằng kia, chúng tôi gặp một
nếp nhà tranh vừa cất xong, chưa ở. Nhà
trống trơn và cửa phên tre dựng bên vách hông nhà, cho
chúng tôi thấy rõ bên trong: Giữa gian nhà giữa, trên
nền đất, một lò lửa đã tàn lụn
nhưng than còn ngún trên tro. Hai bên lò lửa là một lu nước
đầy gần tràn và một khạp gạo đầy
nhóc.
Thuở
bé tôi ở thôn quê, nên biết rằng đó là những món
tượng trưng cho sự đầm ấm và sung túc mà
người ta bày ra giữa nhà mới, hăm bốn
tiếng đồng hồ trước khi vào ở,
để cầu một đời ấm no và vui vẻ
về sau.
Anh
Minh say sưa nhìn bếp lửa và lu nước rồi nói,
như nói một mình: „Ta có danh từ nước lửa,
danh từ ấy chỉ hai thứ thiên tai mà ta rất
sợ. Nhưng …
Giây
lát sau, tôi đi vào ấp với bên cạnh tôi, một
người bạn đời thình lình mắc bệnh á
khẩu. Nếu không có bé Liên cái miệng tía lia, cả ba
chúng tôi giống một đoàn người đi
đưa đám ma mà giữ lễ theo phép lịch sự
Âu châu.
Tới
đầu xóm, anh Minh nói bằng giọng ra lịnh:
- Từ
rày có đi bíc-níc, nên mang gạo, mang nồi theo để
thổi nấu, cấm nhặt em cho gia đình ăn bánh
mì, lạp xưởng hoặc bánh hỏi thịt quay.
Tôi
cười mà rằng:
- Trước
đây thì cấm thổi nấu, cho đến ăn
cơm mo, cơm vắt, làm sẵn ở nhà, anh cũng
cấm. Giờ thì... trái hẳn lại. Nhưng không hề
gì, em sẽ chiều ý anh.
Anh
Minh không chịu vào xóm, đứng đó mà ngắm cái gì
rất lâu không rõ, đoạn đưa mẹ con chúng tôi
trở về lều. Anh ấy đã vui tươi trở
lại và không khí buổi ăn trưa hôm ấy bình
thường nếu không có cái lịnh mới nầy. Anh
ấy hỏi:
- Thùng
dầu lửa ở nhà đã hết rồi chớ? Anh
nhớ hình như hôm qua em có dặn anh chở chiếc thùng
không lại cây xăng gần nhà để đong thêm
mười tám lít?
- Đúng
như vậy, và chiều nay, về Sài gòn, anh nhớ cho,
kẻo mai không có dầu mà nấu ăn.
- Không,
không nấu bằng dầu lửa nữa. Chiều nay anh
sẽ ghé vựa để mua một tạ than
đước với hai cái lò đất nung. Cho cái lò
dầu lửa về hưu đi.
Tôi
hơi lo. Chồng tôi chỉ làm việc vừa chừng
thôi, không hề gặp rắc rối sinh kế hay tình
cảm nào, trong họ nhà chồng tôi cũng không nghe nói có
người nào điên. Nhưng sao lại có cái lịnh
kỳ dị nầy? Than đước một tạ sáu
trăm đồng, nấu chỉ có một tháng là hết
sạch. Trong cái thời gian ấy thì nấu đốt lò
bằng dầu lửa, chỉ phải tốn có trăm sáu
thôi. Nhưng rồi anh Minh đi hái hoa dại cho mẹ con
tôi, nên tôi lại an lòng được vì một kẻ hóa
điên thình lình, không hề nghĩ đến sự
bộc lộ tế nhị của tình thương yêu
như thế đâu.
Chiều
lại, chúng tôi về tới Sài gòn là đã sáu giờ rồi.
Theo chương trình thì chúng tôi đi ăn hiệu,
nhưng anh Minh lại đổi chiến lược vào
phút chót, có lẽ vì... “lý do kỹ thuật” chăng? Anh bỏ mẹ con tôi tại
một góc phố kia, bảo gọi xích-lô đạp mà
về nhà, còn anh ấy thì phóng xì-cút-tơ đi mua lò
đất nung và than đước. Thì ra cái vụ than
đước nầy không phải là lời đùa đâu
mà là cả một kế hoạch nghiêm trang. Đã hơn
sáu giờ rồi. Vào giờ nầy mà bắt vựa than
họ chở than tới nhà, mà phải chở tốc hành,
không thôi tới nửa đêm, dễ thường chưa
có cơm mà ăn, thì họ sẽ tính tiền chở
gấp ba cho mà coi!
Lại
không có gì mà ăn nữa. Má tôi ở nhà, nhưng bà cụ
chỉ cần một dĩa cá kho mặn mà thôi. Rồi anh
ấy lại kêu là nuốt không trôi! Vào giờ nầy, còn
chợ búa đâu để mà mua thịt, mua cá? Rõ khổ!
Tôi không ngại phải nấu bữa ăn tối
nầy. Đi ăn hiệu là tại anh ấy bày
đặt cho tốn tiền chớ tôi đã đề
nghị từ lâu là làm sẵn vài món ăn hồi trưa
thứ bảy, chiều chúa nhựt về tới nhà,
chỉ còn việc hâm lại cho nóng mà thôi. Mà cũng không
phải là tôi hâm nữa. Má tôi ăn cơm hơi sớm,
ăn xong, bà hâm giùm tôi là kịp lúc chúng tôi về
đến nơi.
Anh
Minh mới có băm hai tuổi mà đã gàn ra thì sống
chung với anh ấy thêm hai ba mươi năm nữa, tôi
chịu sao thấu hở trời!
Kỳ
lạ nhất là khi má tôi nghe tôi kể chuyện điên
của „ông“ rể gàn của bà, đôi mắt bà lại sáng
lên. Má tôi ở thôn quê không được yên, nên anh Minh anh
ấy rước bà lên đây từ ba năm nay. Chú rể
quí ấy được má tôi cưng ghê lắm. Anh ấy
có nịnh má tôi chăng ? Hình như là không vì bà cũng
chẳng còn tài sản gì để anh ấy phải dùng
thủ đoạn hầu hưởng một phần gia
tài lớn hơn phần của người anh cả
của tôi. Biết vậy, nên tôi tủi thân lắm,
buổi đầu mà má tôi lên đây. Má tôi không cưng anh
ấy vì sự nịnh nọt của anh ấy, thì tức
là cưng anh ấy vì lòng thương, mà lại
thương anh ấy nhiều hơn là thương tôi
nữa. Nói thì nói chớ tôi cũng lo tắm rửa cho bé
Liên, còn chính tôi thì tôi bỏ tắm chạy lại hiệu
chạp phô ở đầu phố để mua trứng
vịt, hàm-yũ để phụ thêm với món cá kho muôn
năm của má tôi, cho mâm cơm ra vẻ một chút.
Giây
lâu sau, xe ba bánh đưa than về và má tôi chạy ra
cổng rước than như dân đi tiếp rước
quan to, hồi tiền chiến. Chính má tôi đốt lò,
quạt than và vo cơm, rồi bà không chịu rời nhà
bếp nữa.
Bữa
ăn hôm ấy, tôi không vui vì bị giá của tạ than
đước ám ảnh. Tôi phân trần với má tôi:
- Má
coi ! Than mắc tiền bằng ba lần dầu
lửa, vậy mà...
Anh
Minh cười hề hề, chận lời tôi:
- Có
lần em đã nói: „Thôi, em không học may áo đầm cho
bé Liên đâu. Mình học chăm thế nào cũng không
giỏi bằng thợ mà họ may sẵn bày bán ở các
hiệu, còn rẻ hơn là chính mình may lấy nữa. Em đã
nói sai.”
Má tôi đã phụ họa
theo:
- Ừ, con sai lầm. Đâu có
phải như vậy.
- Ơ kìa, em nói chuyện than
đước kia mà, mắc mớ gì đến áo
đầm chớ ?
- Than đước, tức là áo
đầm đó.
- Ừ, cha con Liên nói có lý. Má tôi
lại phụ họa theo anh ấy.
Má tôi đã già nên lẩm
cẩm, thì còn nhịn được, chớ anh Minh mà nói
chuyện tầm ruồng như thế, là anh ấy
sắp đi nhà thương Biên hòa rồi vậy. Tôi kinh
ngạc, nhìn anh ấy trừng trừng. Anh ấy lại
cười hề hề mà rằng:
- May áo đầm, thật ra, không
phải là may áo đầm.
Tôi sợ quá. Rõ ràng là anh Minh
hóa điên. Nhưng tôi cũng hỏi:
- Chớ là gì?
- May áo đầm là một qui
phạm.
- Qui phạm là gì?
- Là một kỷ luật mà ta
cố theo, và kỷ luật ấy luyện cho ta vào cái
nếp nội trợ.
- Chớ em không làm nội trợ à?
- Không, em chỉ làm nội trợ
miễn cưỡng mà thôi. Em thích đi làm thu ngân viên
hơn. Em có óc công nhân, chớ không có óc nội trợ
đâu. Ai lại không biết rằng học chăm
đến đâu cũng không giỏi bằng thợ, rằng
ta hà tiện vải đến đâu, áo may cũng không
rẻ bằng áo mua, họ may hằng nghìn cái nên giá vốn
rất hạ. Nhưng khi may áo cho con, em sẽ để
tấm lòng thương yêu con vào đó, em sẽ cố
gắng và sẽ mến được cái qui phạm may áo
và ngày kia em được đưa vào nếp nội
trợ, em làm nội trợ một cách vui thích, nhớ công
việc nội trợ như các cô đào nhớ đèn sân
khấu mỗi đêm.
- Chồng con nó nói đúng đó con à.
Má tôi ủng hộ anh chồng gàn của tôi và bỏ
rơi tôi.
Tôi giựt nẩy mình
trước một điều vô cùng mới lạ mà tôi
nghe chồng tôi nói lần đầu: may áo, không phải là
may áo, mà là một qui phạm nó luyện tính con người.
Tôi giựt mình vì đã có lần tôi đã chê nhà binh sao
cứ bắt lính mới, tập đi ọt, đơ mãi
cho tốn thì giờ, và cậu tôi giải thích: “Đi
ọt, đơ, thật ra không phải là đi ọt,
đơ. Đó là một qui phạm nó luyện cho các tân
binh chịu đựng được kỷ luật nghiêm
khắc của nhà binh”.
Nhưng dầu vậy tôi
vẫn không chịu thua, cố cãi:
- Nhưng may áo đầm, sao lại
là than đước được! Anh khéo nói điên!
Anh Minh lại cười,
hề hề:
- Bởi vì than đước,
thật ra không phải là than đước.
- Nữa, lại cái luận
điệu đó nữa.
- Chớ sao, vì luận điệu
đó tốt. Em có biết thành ngữ “Ăn lông ở
lỗ” hay không?
- Anh đi xa vấn đề quá
rồi !
- Đâu có xa. Trước khi loài
người “ở lỗ” họ rày đây mai đó. Họ
không có đời sống gia đình. Khi họ phát kiến
ra LỬA rồi thì họ mới định cư
lại, chưa biết cất nhà thì họ tìm hang mà ở,
lập gia đình, rồi đêm ngày nhen nhúm lửa thiêng,
đời đời kiếp kiếp nuôi nấng lửa
để ấm hang, nuôi nấng tình gia đình để
ấm lòng. May áo và nhúm lửa là ý niệm gia đình, không
may áo, không nhúm lửa, không xong. Anh chợt nhớ ra sự
thật ấy khi ta bắt gặp nếp nhà tranh mới
cất và chủ nhà nguyện cầu, thề bồi
bằng nước, lửa và gạo, nguyện cầu
được no ấm, thề bồi nổ lực cho
gia đình được no ấm.
- Nhưng, dầu lửa lại không
là lửa à? Tôi lại cãi.
- Không. Em đã không thấy má đã
dành đốt lò với em đó sao?
- Ừ, tao nhớ lửa lắm,
thèm lửa lắm. Má tôi xác nhận.
Chồng tôi diễn
thuyết:
- Lửa thiêng của gia đình,
phải bốc khói, khói ấy phải quyện lấy mái
tranh. Ta ở thành phố, không thể mong hưởng
những thứ ấy thì lửa, ít ra, cũng phải
nổ lách tách trong lò, và tiết ra mùi cây cỏ. Ở
miền Nam ta, có người gọi dầu lửa là
dầu hôi, và quả nó hôi thật. Nhưng lửa thiêng
của gia đình phải thơm, thơm mùi thảo
thụ. Dầu sao nhìn lửa than cũng vui mắt hơn,
nghe nó có linh hồn hơn, nó gợi nhớ sự sống
hơn. Chiếc áo mà chính tay em may sẽ mang cái bản ngã
của em, dầu nó không được đẹp lắm,
chớ không nặc danh như những chiếc áo khéo, mua
ở hiệu. Chiếc bánh phơ-lăng do chính tay em làm, có
cháy khét đi nữa, cũng được hương
vị của tình thương của em đối với
gia đình, chớ không vô hồn như bánh đết-se
của các hiệu ăn sang trọng.
Má tôi nói:
- Tao thì tao thèm nấu bằng
củi hơn. Khói củi thơm hơn khói than. Chiếc áo
bà ba nầy, tao đã may một tháng mới xong, nhưng...
- …nhưng nó quí ở chỗ nó mang
nhãn hiệu “BÀ NGOẠI CỦA BÉ LIÊN” ? Tôi hỏi đùa.
Má tôi và anh chồng gàn
của tôi đồng cười xòa, rồi má tôi chẫm
rãi tuyên truyền cho tôi nghe:
- Nè, củi mỗi thứ mỗi
khác đó nhé. Củi bắp phơi khô để làm
củi, thì ngọn lửa xanh như lửa đèn cồn.
Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y
như than Cà mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ
đường, nó cháy rụi tỏa ra cái mùi của
thời tiết gió bấc về. Còn mầy biết
củi gì thơm ngát hay không? Đó là dăm tiện.
- Dăm tiện là gì má? Chồng tôi
hỏi.
- Muốn làm những vật
dụng tròn như kiểu chơn bàn, chơn ghế kia
chẳng hạn, thợ tiện họ đưa cây vào máy
tiện, cây nó mới tròn trịa đều đặn
được, chớ thợ mộc tài nào mà trau giồi
cho nó tròn. Các món đồ tiện, luôn luôn là vật
dụng quí nên được làm bằng đủ thứ
gỗ quí: trắc, cẩm lai, huỳnh đàn, cho nên dăm
tiện nó thơm dữ lắm, thơm cái mùi hỗn
hợp của đủ loại gỗ mắc tiền.
Lửa củi đã thơm mà hình thù của nó cũng hay
lắm. Nó cháy lên, mình thấy được, chớ không
vô hình như lửa của các lò dầu lửa đâu. Nhìn
ngọn lửa cũng ngộ, nhìn màu lửa còn ngộ
hơn. Mà hay nhứt là lửa củi không chết.
Bé Liên ngơ ngác hỏi:
- Lửa cũng chết nữa sao,
bà ngoại?
- Sao lại không? Lửa lò dầu,
nấu xong bữa ăn là nó tắt liền, vì ta phải
tắt nó, kẻo hao dầu. Lửa củi đâu có như
vậy. Nấu ăn xong thì người ta vùi củi
dưới tro. Tro xốp lắm, nên than củi âm ỉ
cháy tối ngày sáng đêm, bước vô nhà bếp thì nghe
ấm liền, ấm thật sự, mà cũng ấm cúng
nữa. Nhà bếp ở đây lạnh tanh từ đúng
ngọ cho tới năm giờ chiều, nhà nào cũng
vậy. Bước vào các nhà bếp ở đây, nghe ơn
ớn nơi xương sống như là vô nhà hoang
chết chủ!
Tôi ao ước từ mấy
năm nay một bộ lò điện mà anh Minh chưa
đủ khả năng tài chánh để thỏa mãn
giấc mơ của tôi. Lò điện tiện và sạch
hơn lò dầu lửa nhiều lắm. Nhưng bỗng
tôi nghe hết ham cái tiện nghi văn minh đó nữa.
Tôi đã cười đùa
chồng tôi vì anh Minh chỉ biết ra lệnh và nói lý
thuyết. Má tôi dốt lý thuyết nên bà chỉ tả mà
thôi, và quả tôi bỗng nghe thoang thoảng mùi lửa
dăm tiện đâu đây, cái mùi vô cùng đặc
biệt thường nghe thuở bé, hồi còn sống trong
làng.
Má tôi lại nói:
- Ở đây sao mà lạ quá, không có
mùi gì hết, hay chỉ có hai thứ mùi, mùi nước hoa
và mùi ống cống. Mùi hay lắm. Mùi đất xông lên,
sau đám mưa đầu mùa nè, mùi bông bưởi, bông sao
nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè, mùi phân
chuồng nè, mùi rau, đậu tươi nè. Nói tới
đây sao mà tao bắt nhớ nhà chịu không thấu
nữa ! Con Liên, chắc ngày sau, nó đi đâu ở
cũng được, vì thành phố không có cái gì làm cho nó
nhớ hết.
- Có chớ, bà ngoại ! Liên cãi.
- Có cái gì? Má tôi hỏi.
- Có kem nè, có xi-nê nè, có đèn màu nè!
- Rồi cháu sẽ thấy rằng
những thứ ấy không gợi nhớ đâu.
- Chớ cái gì gợi nhớ hở
bà ngoại?
- Mùi vị khác kia, như mùi khói
đống un lá chết vào mùa gió bấc mà người ta
un lên để hơ ấm, bởi vì mùi đó còn dính líu
tới những cái khác nữa, mà nhiều thứ mới
họp lại thành một nỗi nhớ được.
- Thứ nào với thứ nào bà
ngoại?
- Nhiều thứ lắm, bà không
biết nói ra. à... ờ... thí dụ như lửa Tết,
lửa đêm ba mươi nấu bánh tét, quanh lò lửa
lớn ấy có mặt đông đủ cả nhà, ai
đi mần ăn xa ở đâu, cũng phải về,
đông đủ cả nhà mà đôi khi đông đủ
cả họ nữa, vì có những bà con nghèo, không gia
đình, không nhà cửa, họ xin hưởng ké sự
ấm cúng của bất cứ người nào trong họ
mà có được một bếp lửa.
- Còn thứ gì nữa bà ngoại?
- Còn lu bù thứ. Cả nhà họp
mặt đông đủ thì vui, nấu nướng
suốt đêm các món ăn ngon, kể cho nhau nghe chuyện
mần ăn của mình ở xa, nhắc lại chuyện
ăn Tết ngày xưa của ông bà tổ tiên. Đêm
cuối năm gió lạnh lắm, mà quây quần quanh bếp
lửa, ấm ghê đi. Nhà có nhúm lửa, nghe như là sung
túc, mà nhúm những bếp lửa lớn, nghe càng sung túc
hơn. Đó rồi thì ngày mai lại, lửa cháy trong
bếp suốt ba ngày ba đêm, không được hạ
ngọn phút nào hết, cho nó vui. Ở làng, người ta
cất nhà lớn, nhưng cả nhà đều ở sau
bếp, không phải sợ nhà trên mòn mà không dám ở, mà vì
nhà bếp vui hơn, mà vui hơn là nhờ lửa.
Tôi cãi:
- Nhưng ở đây, chật
hẹp như vầy, dầu cho có ghiền khói, ghiền
lửa như má, cũng không làm sao mà...
- Ừ, nhưng nấu than cũng
tạm an ủi được phần nào.
Chồng tôi
nhìn tôi mà cười, đắc thắng.
(Cuống rún
chưa lìa)
No comments:
Post a Comment