Monday, August 8, 2011

NGÀY - 41 GIỜ

Bút Ký Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Phút Giây Ðịnh Mệnh

Mọi người dân Miền Nam Việt Nam đều không thể nào quên được biến cố 30-4. Tuy là một biến cố trọng đại nhưng tùy hoàn cảnh, tùy góc độ nhìn mà mỗi người đón nhận nó một cách khác nhau. Bàng hoàng, đau thương, tức tưởi nhất có lẽ là thành phần Quân - Dân - Cán - Chính, những người trực tiếp chiến đấu, xây dựng cái nơi mà mình đang gắn bó, phục vụ Dân Chủ Tự Do cho Miền Nam. Biến cố ấy diễn ra dài hay ngắn cũng vượt khỏi ý niệm thông thường về thời gian. Có người nó chỉ lướt qua vài giây phút ngắn ngủi, có người dài đủ hai mươi bốn giờ và có người ngày ấy chính là ngày cuối đời.

- Ngày 9-3-1975 biến cố 30-4 đến với người dân sống trên Ban Mê Thuột.

- Ngày 24-3-1975 diễn ra với dân xứ Huế.

- Ngày 29-3-1975 đến lượt người Ðà Nẵng...

Còn Thủ Ðô Sàigòn và các tỉnh miền Tây thuộc Vùng IV Chiến Thuật, biến cố lịch sử ấy đến đúng vào ngày 30-4-1975.

Hàng năm cứ đến 30-4, tôi lại muốn ghi chép ra những điều chất chứa trong lòng. Nhưng dường như thời gian chưa đủ dài để tâm tư tôi lắng đọng, nên lần nào cũng vậy, viết được đôi ba trang, tôi lại buông bút, bởi cảm thấy mình vẫn chưa lột tả hết thực trạng về biến cố ấy của đơn vị tôi. Có thể tôi chưa đủ can đảm, bởi kể lại một quá khứ oai hùng, ghi lại một trận chiến thắng oanh liệt thì tương đối dễ. Còn viết về một biến cố đau thương tức tưởi của bản thân, của chính thể mà mình gắn bó, phục vụ quả thật quá khó khăn.

30-4 năm nay lại về và lại qua đi trong nuối tiếc, sự thôi thúc phải viết vẫn nóng hổi trong tôi. Lần này, tôi nhất quyết làm cho xong cái điều tôi hằng ấp ủ. Tôi tự giam mình trong phòng suốt mấy ngày liền, ngồi trước máy vi tính viết xuống một mạch tất cả những gì còn lưu trong ký ức. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi đánh lên bàn phím dấu chấm cuối cùng. Tiến sang giai đoạn sửa chữa ý tứ, câu văn cho mạch lạc, thì vợ tôi lại lôi đâu ra quyển sổ được tôi ghi chép những diễn biến xảy đến trong cuộc đời tôi lúc còn tạm trú nơi trại Tỵ Nạn Mã Lai năm 1976. Tôi tưởng những giờ phút đau thương nhất trong đời, phải luôn mãi hằn sâu trong tâm tư để không bao giờ phai nhạt. Nhưng khi đọc lại bút tích do chính tay tôi viết từ hơn một phần tư thế kỷ qua, tôi mới hay mình lầm. Quả thật, không một thứ gì có thể tồn tại mãi với thời gian. Nếu ví biến cố 30-4 như một căn nhà, thì trong trí tôi giờ đây chỉ còn lưu lại được căn nhà, mà hầu như mọi đồ đạc bên trong đã bị lớp bụi thời gian phủ kín. Tôi có cảm tưởng, quyển vở cũ là chiếc khăn giúp tôi phủi sạch đi lớp bụi thời gian, làm quá khứ hiển hiện như vừa mới xảy ra.

*

Viết lại chuyện cũ, tôi muốn được dùng ngôn từ cũ để làm sống lại quá khứ.

Tôi, Trung úy Nguyễn Văn Hưởng số quân 68/409398. Tốt nghiệp Khóa 1/69 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Giữ chức vụ Sĩ Quan An Ninh Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Ðoàn 21 Truyền Tin, một đơn vị kỹ thuật chuyên đảm trách việc thiết lập hệ thống liên lạc cho Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, biệt danh Sét Miền Tây. Sư Ðoàn tôi giữ nhiệm vụ bảo vệ an ninh lãnh thổ 6 tỉnh: Cần Thơ, Chương Thiện, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, thuộc Vùng IV Chiến Thuật. Thiếu tá Lương Duy Thanh Tiểu Ðoàn Trưởng, người chỉ huy đơn vị cho đến phút giây cuối cùng. Tiểu Ðoàn có 3 Ðại Ðội: Ðại Ðội Chỉ Huy Công Vụ do Ðại úy Trần Duy Chinh làm Ðại Ðội Trưởng. Ðại úy Thân Văn Vui, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Khai Thác Chỉ Huy và Ðại úy Nguyễn Văn Hiền, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Khai Thác Hành Quân.

Tám dãy nhà tôn được phân chia làm đôi, mỗi bên bốn dãy, sắp thành hai hàng, ngăn bởi cái sân rộng ở giữa có dựng một kỳ đài. Ðó là doanh trại Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 21 Truyền Tin, nơi tôi phục vụ gần sáu năm trong cuộc đời binh nghiệp. Ðứng từ ngoài Quốc Lộ số 4, con đường huyết mạch nối liền Sàigòn - Cà Mau nhìn vào, toàn doanh trại được bao bọc bằng lớp hàng rào kẽm gai cao khỏi đầu người. Chính giữa là cái cổng lớn, hai cánh làm bằng sắt ấp chiến lược luôn đóng kín, chỉ được mở mỗi khi có xe cộ ra vào. Phía cánh trái còn một cổng phụ nhỏ dành cho người đi bộ và xe hai bánh. Bên cánh phải có một tháp canh thật cao, nơi tôi thích leo lên ngồi nói dăm ba câu chuyện với anh lính gác, đưa mắt ngắm nhìn đồng lúa mênh mông chạy đến tận chân trời. Bên dưới tháp canh là phòng Tiếp Tân, nơi còn ghi đậm nét trong tim tôi hình ảnh cô nữ sinh áo trắng đến thăm và ngồi chờ tôi ngày nào. Cô ta chính là vợ tôi, người đã và đang cùng tôi chia ngọt sẻ bùi trên những bước thăng trầm của cuộc sống. Hai bên cổng ra vào còn có hai cái ao thật lớn thả đầy rau muống, như hai đường giao thông hào trải dài giúp cho việc phòng thủ mặt trước Tiểu Ðoàn. Những ngày trực, tôi thường đem cần ra bờ ao ngồi câu cá giải khuây.

Ðơn vị tôi tuy đóng cách tỉnh lỵ Bạc Liêu chỉ hơn hai cây số, nhưng đã được xem là vùng ngoại ô, là tiền đồn bảo vệ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh nằm ngay trung tâm tỉnh lỵ. Nói đến Bạc Liêu, người ta thường hay thêm vào hai chữ “công tử” phía trước, rồi nhắc lại chuyện Hắc Bạch công tử thi nhau đốt tiền dê gái, nghĩ đến một vùng đất có ruộng đồng bao la...

Tôi đổi xuống Bạc Liêu cuối năm 1969, thời huy hoàng của các chàng công tử đã hết, nhưng ruộng đồng “cò bay thẳng cánh” vẫn còn nguyên đấy. Ðể giới thiệu thành phố với tôi, một anh lính gốc gác miệt dưới này, đọc cho tôi nghe hai câu lục bát được lưu truyền:

“Bạc Liêu kênh lưới, ruộng lờ

Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu”.

Cuộc đời binh nghiệp tôi gắn liền với doanh trại đầy ắp kỷ niệm ấy nơi miền Bạc Liêu sông nước hiền hòa. Là một người lính chuyên ngành, nghe không mấy hào hùng, nhưng cũng góp một phần nhỏ vào việc bảo vệ Tự Do cho quê hương đất nước. Tôi yêu doanh trại đơn vị tôi nhiều lắm, yêu nhất những buổi sáng dậy thật sớm, dậy trước cả mặt trời, bước ra hít thở không khí trong lành của đồng lúa rồi trở vào Câu lạc bộ, ngồi chờ ngửi mùi cà phê mới pha thơm ngát, hớp trọn hương vị ấy bên điếu thuốc thơm Quân Tiếp Vụ. Chỉ cần có thế, là đủ cho tôi có một buổi sáng đẹp.

*

Kể từ 24-3-1975, ngày quân dân Huế được lệnh di tản, hàng đêm tôi đều phải vào ứng chiến trong đơn vị. Sáng nay, 30-4-1975, cũng như mọi ngày, tôi thức dậy đánh răng rửa mặt xong là xuống thẳng Câu lạc bộ nhâm nhi ly cà phê buổi sáng. Nhưng ly cà phê và điếu thuốc sáng nay sao quá nhạt nhẽo, mất hết hương vị, nên tôi ra lấy xe về nhà sớm hơn thường ngày. Tôi cho xe chạy thật chậm để những cơn gió ban mai mặc tình mơn man da thịt, làm mát lại tâm hồn. Cả tháng nay, đầu óc tôi luôn trĩu nặng bởi những cuộc “di tản chiến thuật” liên tiếp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ðêm qua Cộng quân lại tấn công vào phi trường Sóc Trăng khiến một số hệ thống liên lạc bị tê liệt, Quốc Lộ 4, con đường huyết mạch nối miền Tây với Sàigòn vừa bị cắt đứt. Chẳng biết bao giờ đến lượt Bạc Liêu nhỏ bé này? Miên man suy nghĩ, xe về đến nhà lúc nào tôi cũng không hay.

Từ khi có lệnh cấm quân, hàng ngày vợ chồng tôi chỉ gặp nhau vào buổi sáng sớm và hai bữa cơm trưa, chiều. Chúng tôi không còn chở nhau ra đồng hóng mát, đưa nhau đi xem chiếu bóng. Ở nơi tỉnh lẻ này chỉ có vài thú vui ấy, vậy mà chúng tôi cũng phải từ bỏ nốt vì tình hình chiến sự sôi động.

Mới bước chân vào nhà, vợ tôi lên tiếng hỏi ngay:

- Sao hôm nay anh về sớm vậy?

Tôi nhìn vợ, nheo mắt cười:

- Nhớ em về sớm một chút không được sao?

Nguýt tôi một cái xong, vợ tôi nũng nịu:

- Lâu quá rồi anh không đưa em đi tiệm ăn sáng!

- Ừ, vậy em thay đồ nhanh lên rồi mình đi.

Vừa bước vào buồng, vợ tôi vừa cằn nhằn:

- Anh lúc nào cũng hối em cả!

Tôi nhún vai không trả lời, bước đi mở nhạc, buông mình xuống ghế, hai chân duỗi thẳng gác lên bàn, thả hồn theo giọng hát Thái Thanh cao vút trong một bản tình ca.

*

Chợt tiếng vợ tôi gọi như thúc giục, làm tôi quay về thực tại.

- Anh ơi vào đây em chỉ cái này cho mà coi, mau lên!

Tôi hối hả bước vào buồng. Vợ tôi nắm tay tôi đặt áp lên cái bụng căng tròn rồi nói:

- Anh thấy không, nó đang đạp em đó, đạp mạnh như vậy, em nghĩ chắc là con trai.

Nhìn sâu vào mắt vợ, tôi mỉm cười nói:

- Ráng sinh cho anh đứa con trai đi.

- Ráng làm sao được mà ráng, trai hay gái là do Trời. Bộ con gái rồi anh không thương sao?

- Thương chớ sao không. Nhưng anh thích con trai đầu lòng hơn. Thôi thay quần áo mau đi.

- Anh lại hối em nữa!

Vợ tôi có mang đã hơn bảy tháng, tôi không muốn nàng vướng nhiều ưu phiền, sợ ảnh hưởng đến đứa con sắp chào đời, nên mọi ưu tư trăn trở tôi cố giữ trong lòng. Nhìn vợ tôi bước đi chậm chạp nặng nề, tôi vội ra kéo chiếc xe lại sát mé hàng ba cho vợ tôi dễ ngồi lên.

Sáng nay phố xá Bạc Liêu tấp nập người qua kẻ lại, chợ búa sinh hoạt vẫn bình thường như mọi ngày. Quán cà phê hủ tíu nào cũng đầy khách, hai tôi phải khó khăn lắm mới tìm ra chỗ ngồi. Tôi không thích những nơi ồn ào như vầy, vừa tốn tiền vừa dễ gây bực mình. Lương lính và công chức của cả hai vợ chồng chỉ vừa đủ sống, nên cũng hiếm khi đưa nhau ra tiệm. Tôi gọi hai tô hủ tíu, trong lúc chờ thức ăn dọn ra, vợ tôi kể lể:

- Ông Phó Giám Ðốc Ngân Hàng em về Sàigòn từ mấy hôm nay. Ông ấy thường than vãn: “tình hình cứ suy đồi mãi như thế này, chắc Việt Nam sẽ bị lọt vào tay Cộng Sản mất”.

Tôi chỉ ngồi trầm ngâm lắng nghe. Lúc người bồi mang thức ăn đến, thấy tôi vẫn thừ người ra đấy, vợ tôi giục:

- Anh ăn mau đi kẻo nguội.

Vừa nặn chanh vào tô, tôi vừa dọ hỏi vợ:

- Mấy ngày nay người ta rút tiền gởi ngân hàng ra nhiều không?

- Cũng thường vậy thôi.

- Anh lo, nếu phòng tuyến Xuân Lộc mà bị chọc thủng, Sàigòn sẽ biến thành tiền đồn mất. Ðài BBC và đài VOA đêm hôm qua cũng như sáng nay bình luận rất bi quan. Hồi hôm, phi trường Sóc Trăng bị tấn công, anh không biết bao giờ đến Bạc Liêu mình. Anh dặn trước, nếu lỡ mà có đánh nhau trong tỉnh, em phải tự lo liệu xoay xở một mình vì lúc đó anh phải ở trong đơn vị.

Vẫn vô tư, vợ tôi hồn nhiên trả lời:

- Anh nói gì mà nghe ớn quá vậy, thôi ăn mau đi kẻo nguội.

Dù đã cố kềm hãm, nhưng không hiểu sao tôi vẫn nói những lời bi quan ấy với vợ. Tôi bèn chữa lại để vừa trấn an mình, vừa trấn an vợ:

- Anh dặn hờ em vậy thôi.

Vợ tôi xoay sang chuyện khác:

- À hôm trước, em nghe nói có mấy người làm sở Mỹ đưa gia đình lên Cần Thơ. Ra đi họ bán đổ bán tháo đồ đạc trong nhà. Anh Bình làm một chỗ với em, mua được mấy cái giường và cái tủ lạnh giá thật rẻ.

- Tới nước này rồi, em còn ham chi những thứ đó nữa!

Thấy nói điều gì cũng gây bực mình cho tôi, vợ tôi chú tâm vào việc ăn uống, không hỏi han thêm nữa. Chắc vợ tôi thấu hiểu được sự căng thẳng trong tôi và để giúp tôi thư giãn, ăn xong, vợ tôi nhìn đồng hồ tay rồi lên tiếng:

- Còn cả nửa tiếng nữa mới đến giờ làm việc, chở em đi vòng vòng chợ một lát, lâu quá rồi anh không đưa em đi chơi.

- Ừ đi thì đi.

Phố xá Bạc Liêu tập trung quanh vài ba con đường chính, đảo xe chừng mươi phút là hết. Cửa tiệm nào cũng tấp nập khách ra vào, bóng dáng chiến tranh tưởng chừng còn quá xa với người dân thành phố hiền hòa này. Loanh quanh một lát, vợ tôi vỗạ vỗ vào vai tôi:

- Anh cho em xuống tiệm đàng trước xem có khúc vải nào đẹp không, em định cắt may vài cái áo bầu vì bụng em càng ngày càng to.

- Thôi gần đến giờ làm rồi, đi trễ kỳ lắm. Tình hình này mà em còn lo may với mặc cái nỗi gì!

Thấy tôi lại bực mình, không tán đồng, vợ tôi cằn nhằn:

- Ði với anh chán thấy mồ, để lát nữa làm bớt việc, em rủ cô Nhung đi với em.

*

Ðưa vợ đến Ngân Hàng xong, tôi cho xe chạy nhanh về đơn vị. Nhìn tôi bước vào ban, Thượng sĩ Nguyễn Văn Thanh, Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị, ngưng việc quét bụi và dọn dẹp giấy tờ trên bàn, giơ tay lên chào tôi rồi cười hỏi:

- Sao hôm nay Trung úy vào sớm vậy?

- Sớm gì nữa, cũng gần đến giờ tập họp rồi!

Nhìn sang Ban 3 bên cạnh, Hạ sĩ Ðiệp đang ngồi cắm cúi học bài. Ðiệp siêng năng cần mẫn, không chịu để mất một chút thời giờ nào, hễ rảnh rỗi là đem sách ra học. Ðiệp nhất quyết lấy cho bằng được mảnh bằng Tú Tài Ðôi để xin đi học khóa sĩ quan. Thấy Ðiệp chăm học, tôi thường chỉ bảo, nâng đỡ và khuyến khích tinh thần anh hạ sĩ hiếu học này. Nhưng hôm nay nhìn Ðiệp học, tôi buột miệng nói:

- Thôi Ðiệp, học hành làm chi nữa, chắc gì có thi cử năm nay!

Ðiệp tròn xoe đôi mắt nhìn tôi:

- Trời, Trung úy mà nói vậy thì còn gì nữa!

Trước đây có bao giờ tôi nói với Ðiệp bằng giọng điệu bi quan ấy đâu. Lúc nào tôi cũng lạc quan tin tưởng vào sự tất thắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Là một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị, tôi còn phải quảng bá sự lạc quan ấy đến với mọi người. Hôm nay tôi nói với Ðiệp lời ấy, tức sự lạc quan trong tôi đã biến mất, và tôi cũng vừa lấy đi niềm tin tất thắng trong Ðiệp. Gấp quyển sách lại ngay sau câu tôi nói, Ðiệp ngồi thừ người chống tay lên cằm, gương mặt Ðiệp hằn lên nỗi ưu tư. Tôi muốn nói đôi câu an ủi Ðiệp, nhưng chẳng biết nói lời gì!

Kẻng tập họp trỗi lên, mọi người lần lượt tiến ra sân cờ. Vẫn như thường ngày, điểm danh xong, lễ chào Quốc kỳ bắt đầu. Quân nhân các cấp vẫn hùng hồn đồng hát bản quốc ca trong lúc lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ được kéo lên rồi tung bay phất phới trong nắng sớm.

Lễ chào cờ xong, tôi lê những bước chân nặng nề về nơi làm việc. Nhân viên trong ban vào đầy đủ, chúng tôi lại bắt đầu một ngày làm việc trong nỗi chán chường. Không phải đến hôm nay tôi mới cảm thấy như vậy, nó đã gậm nhấm tôi hơn một tháng qua, từ khi các vùng Chiến Thuật lần lượt di tản, để mất dân mất đất, giờ thì Cộng Quân lại sắp tiến vào Sàigòn. Tôi quay về thực tại khi Thượng sĩ Trần Quang Mẫn, Hạ Sĩ Quan An Ninh đến bên nhắc nhở:

- Trung úy coi lại mấy bản báo cáo tôi đặt trên bàn từ mấy ngày rồi. Xin Trung úy duyệt lại ngay giùm, để còn kịp đưa lên ban Văn Thư trình Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng ký gởi đi trưa nay, tôi sợ báo cáo trễ quá bên Phòng An Ninh họ khiển trách mình.

Thượng sĩ Thanh cũng đưa cho tôi một chồng văn thư Ðến và Ði. Tôi ngao ngán giở xấp hồ sơ ra. Những dòng chữ, những con số như nhảy múa trong đầu, tôi không biết mình đang đọc những gì. Cuối cùng như một cái máy, tôi đặt bút ký vào mọi giấy tờ, rồi trao hết cho hai người phụ tá.

*

Ðầu óc tôi bây giờ hiện lên toàn những câu hỏi không lời giải đáp. Nghĩ đến ông Phó Giám Ðốc Ngân Hàng, nơi vợ tôi làm việc đã bỏ nhiệm sở lên Sàigòn tìm đường ra đi, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nhiều tướng lãnh cao cấp cũng đã lìa xa quê hương. Tôi âu lo không biết số phận Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa sẽ ra sao nếu Miền Nam sụp đổ? Riêng tôi, phải tìm đường ra đi hay ở lại, đành cam chấp nhận mọi bất hạnh xảy đến với mình? Nếu đi thì đi đâu và đi bằng phương tiện nào? Cả hai nước Miên - Lào đã lọt vào tay Cộng Sản, nên đường bộ coi như bí lối. Ðường hàng không thì không có! Chỉ còn mỗi con đường biển! Bạc Liêu tuy gần biển thật, nhưng tôi thì chẳng hiểu nhiều về đại dương.

Trong đời, tôi có hai lần đi biển. Lần đầu, xuống tàu rời Hải Phòng, theo bố mẹ vượt tuyến vào Nam tìm Tự Do năm 1955. Suốt ba ngày ba đêm lênh đênh, tôi không biết nước biển màu xanh hay màu đỏ. Mẹ tôi bảo, tôi chẳng ăn uống được gì, chỉ nằm bẹp một chỗ ói mửa rồi đòi nước uống. Lần thứ hai là ngày tôi nhập ngũ, xuống tàu đi từ Nha Trang vào Sàigòn. Ngày ấy, tôi là khách của chiếc tàu Hải Quân, cũng chỉ nằm dưới sàn tàu để người ta đưa tới bến. Giờ đây, nếu muốn ra đi bằng đường biển, tôi phải là người điều động, phải hiểu biết về con tàu, phải hiểu biết về đại dương và nhất là phải biết bến bờ nơi tôi định đến.

Ngồi nghĩ gần nát óc, tôi vẫn chưa tìm ra một tia sáng. Không có hướng đi nghĩa là tôi phải ở lại tử chiến với Cộng Sản hay phải chấp nhận hết những đòn thù của người phương Bắc. Nghĩ tới việc phải đối diện với người Cộng Sản tự nhiên tôi rùng mình không dám nghĩ thêm gì nữa. Ðứng trước vực thẳm, tôi cố tìm cho mình một lối thoát bằng cách bám víu lại niềm tin vào Quân Lực mình. Vùng I, Vùng II, Vùng III Chiến Thuật có mất, nhưng chưa phải là thua toàn diện. Biết đâu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ đảo ngược lại tình thế. Tết Mậu Thân 1968, Miền Nam cũng đen tối. Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 cũng không mấy sáng sủa ở những ngày đầu. Nhưng cuối cùng, những trận chiến ấy, phần thắng vẫn về với Quân - Dân Miền Nam. Nghĩ đến đó, tôi như lấy lại được đôi chút niềm tin.

Tôi thấy cần có người tâm sự, chia bớt những ưu tư trĩu nặng trong đầu. Ngẫm nghĩ một lát, tôi quay sang bảo Thượng sĩ Thanh:

- Ông xuống phòng Thường Vụ ghi tên cho tôi đi khám bệnh.

- Trung úy bệnh gì vậy?

Ðột nhiên tôi xẵng giọng, như muốn trút bớt sự căng thẳng trong lòng:

- Ðừng hỏi lôi thôi. Cứ đi ghi tên cho tôi.

Lúc qua xin phép Ðơn Vị Trưởng, ông cho đi ngay rồi căn dặn tôi:

- Ði khám bệnh về, anh nhớ lo ngay chương trình sinh hoạt đơn vị vào lúc 9 giờ sáng ngày mai cho tôi.

Thật không còn gì khó khăn hơn cho tôi phải tổ chức sinh hoạt đơn vị trong lúc này. Tôi biết nói gì đây để giữ vững niềm tin cho anh em, trong khi chính tinh thần tôi đang bị suy sụp trầm trọng. Tôi phải trả lời sao cho thông suốt các câu anh em hỏi, bởi đó cũng là những câu tôi đang tự hỏi chính mình. Nhưng là một chiến binh, tôi chỉ biết tuân hành mệnh lệnh thượng cấp.

*

Bạn bè tôi trong giờ phút này nếu không bận chuyện công sở cũng đang bù đầu lo việc an ninh phòng thủ doanh trại. Tôi chẳng nghĩ ra một người nào rảnh rang sẵn sàng ngồi nghe tôi trút bầu tâm sự. Nhìn phố phường vẫn buôn bán nhộn nhịp, tôi tự hỏi: “Ðứng trước một tình thế suy sụp đến như vậy mà người dân Bạc Liêu vẫn sống bình thản như không có chuyện gì xảy đến?” Tuy khai bệnh chỉ là cái cớ để tôi chạy loanh quanh cho đầu óc bớt căng thẳng, nhưng khi chẳng còn biết đi đâu, thấy cũng gần tới giờ khám bệnh, tôi cho xe chạy đến Tiểu Ðoàn 21 Quân Y. Lúc tôi đang lum khum dựng xe, anh bạn Nha Sĩ Cao Trừ từ trong Câu lạc bộ bước ra, nhìn thấy tôi, anh tiến đến vỗ vai hỏi:

- Sao, bồ sang đây có việc gì hả?

- Tao qua hỏi xin bác sĩ vài viên thuốc cảm thôi.

- Mấy ông bác sĩ quýnh quáng lên hết cả rồi, còn khám khiết gì mấy ngày này nữa! Cần thuốc gì, lát nữa tao bảo y tá đem ra cho.

Tôi nhún vai:

- Ðược vậy thì tốt.

Cao Trừ vừa kéo tôi vào phòng nha khoa vừa lên tiếng hỏi:

- Mày có tính gì chưa?

Muốn Cao Trừ nói rõ thêm, tôi hỏi lại:

- Tính gì?

- Trốn đi hay ở lại chớ còn tính gì nữa! Tao thấy Việt Cộng sắp vào tới Sàigòn rồi!

Trầm ngâm một lát, tôi bảo Cao Trừ:

- Tao cũng biết vậy. Nhưng trong giờ phút này, tính càng nhiều hay chẳng tính toán gì, đều giống nhau cả, chúng mình đã thực sự bí lối rồi.

Trừ nhanh nhẩu phản bác:

- Mày sao bi quan quá, “còn nước còn tát”, “có còn hơn không”. Nói thiệt với mày, tao đang tìm đường dọt đây. Bây giờ chỉ còn duy nhất một con đường biển. Muốn đi đường này cần tiền và tàu, cả hai thứ tối quan trọng ấy, làm gì mà tao có. Tao biết, bên vợ bác sĩ Toàn ở Rạch Giá, có ghe đánh cá lớn, tao vừa qua rủ ông ấy đi, nhưng ông ta lưỡng lự. Ông ấy nghĩ, là bác sĩ thì chế độ nào cũng cần, chắc chẳng đến nỗi nào đâu.

Tôi lắc đầu thở dài:

- Nhưng sống sao cho đáng một con người, đó mới là điều cần nghĩ tới, nếu rủi Miền Nam lọt vào tay Cộng Sản chứ!

- Nhưng ông ta chẳng hiểu gì về Cộng Sản cả, còn tao là người miền Nam, nói ông ấy không mấy tin. Ông ta còn đang ngồi bàn thời cuộc trong Câu lạc bộ, hay mày đi với tao qua đó, mày dân Bắc kỳ, từng trốn chạy Cộng Sản, nói vào biết đâu ông ta đổi ý.

Tôi và Cao Trừ vừa bước xuống đường, gặp ngay bác sĩ Toàn từ trong Câu lạc bộ bước ra. Ông nhìn Cao Trừ và tôi rồi lắc đầu, giơ hai tay thẳng lên trời nói với một giọng đầy thiểu não:

- Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng rồi!

Tôi bàng hoàng cả người, nếu không có bức tường cạnh đó cho tôi đứng dựa lưng vào chắc tôi đã không đứng vững. Tuy cả tháng nay đầu óc tôi luôn lởn vởn nghĩ đến giây phút này. Nhưng nay nó đến thực sự, tôi vẫn không tránh khỏi kinh hoàng. Tin Miền Nam sụp đổ lan truyền thật nhanh, chỉ trong khoảnh khắc cả bệnh viện đều nhốn nháo. Các anh em thương bệnh binh mặt mày tái mét hớt hải rời giường bệnh bước ra ngoài hành lang. Có người cầm trên tay chai nước biển với dây nhợi lòng thòng, có người ôm theo bọc ruột bên mình... Họ hốt hoảng ngơ ngác, đứng bất động nghe ngóng. Tôi không tài nào biết được họ đang nghĩ gì trước một hoàn cảnh trớ trêu như thế này. Tôi cố gạt bớt những suy tư trĩu nặng trong đầu, quay sang bảo Cao Trừ:

- Thôi tao phải về đơn vị bây giờ!

Cao Trừ nhìn tôi ngao ngán lắc đầu. Tôi vội đi lấy xe rồi phóng thẳng ra đường.

Lời Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng khiến dân chúng Bạc Liêu hốt hoảng như con thú bị sập bẫy. Ngoài phố chợ, các hàng quán ngưng ngay việc buôn bán, vội vã thu dọn đồ đạc, mau chóng đóng cửa tiệm. Nét kinh hoàng hiện rõ ràng lên từng gương mặt. Trên đường mọi xe cộ đều phóng thật nhanh, người đi bộ cũng hối hả rảo bước.
















Chân Dung Người Lính

Những lớp kẽm gai phòng thủ đơn vị đã được kéo lại, anh lính gác nhận ra tôi, vội chạy ra mở cổng. Vẫn như thường ngày, mở cổng xong anh đứng trong tư thế nghiêm bồng súng chào cho đến khi xe tôi đi khuất. Quân nhân các cấp đang lũ lượt tiến ra sân tập họp, tôi nhập chung vào đoàn người ấy. Khi hàng ngũ chỉnh tề, Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng từ trong văn phòng bước ra, ông đứng nghiêm chào hàng quân xong, với một giọng chân thành, ông nói như tâm tình với mọi người:

- Tất cả các anh em đều hay biết, Tổng Thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Khi nghe tin này tôi hết sức đau lòng. Chúng ta phải làm gì đây trước quyết định nhục nhã này? Ðó là một câu hỏi lớn hiện đang ở trong đầu tôi và các anh em. Là người lính chiến, chúng ta đều biết, tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh thượng cấp chính là sức mạnh của quân đội. Cho nên khi nghe lời tuyên bố đầu hàng, tôi đã liên lạc ngay với Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Ðoàn để nhận lệnh. Tuân hành khẩu lệnh của Chuẩn Tướng Tư Lệnh Mạch Văn Trường, kể từ giờ phút này tôi đặt Tiểu Ðoàn dưới quyền điều động trực tiếp của Tiểu Khu Trưởng. Hiện giờ Ðại tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Ðiệp đang lo triệu tập bộ tham mưu họp bàn phương cách đối phó. Tôi khuyên các anh em hãy giữ bình tĩnh và luôn tuân hành đúng mọi chỉ thị. Cho dù còn được tiếp tục chiến đấu hay phải buông súng, chúng ta cũng phải luôn ở trong tư thế bảo vệ danh dự quân đội và chu toàn trách nhiệm một người lính, không nên tỏ thái độ hoảng hốt làm cho dân sợ. Riêng phần tôi, sống hay chết, cũng luôn ở bên anh em.

Rời hàng quân tôi thầm nghĩ: lệnh tuyên bố đầu hàng đã ban ra rồi thì mọi sự kháng cự diễn ra sau đó chỉ là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng. Nhưng cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến, tôi nhất quyết luôn ở bên ông Ðơn Vị Trưởng và đồng đội tôi. Tuy đã xác quyết với lòng như vậy, nhưng lúc buông mình xuống chiếc bàn làm việc thường ngày, đầu óc tôi vẫn rối tựa tơ vò. Càng buồn nản hơn khi phải nghe đi nghe lại lời Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng, lời Tướng Minh mời Cộng Sản vào bàn giao chính quyền, phát ra từ chiếc radio đặt trên bàn Thượng sĩ Thanh. Tôi ngẩng đầu lên gắt:

- Tắt cái radio đi, để nó lải nhải mãi làm gì!

Tiếng radio tắt hẳn, tôi lại ngồi thừ người ra đó. Chợt tiếng chuông điện thoại trên bàn reo vang, nhấc máy lên, đầu dây bên kia tiếng vợ tôi hối hả âu lo:

- Alô! Anh đó hả, anh có hay tin Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chưa? Em mới từ Ngân Hàng chạy vội vừa về đến nhà nè, anh có sao không? Có về nhà ăn cơm trưa nay không?

- Anh không sao, trưa nay anh ăn cơm trong đơn vị.

- Vậy chừng nào anh về?

- Anh cũng không biết nữa, em đừng lo, có chuyện gì anh gọi cho em hay ngay.

Sau bữa cơm trưa ăn vội vã, Thiếu tá Thanh rời Tiểu Ðoàn qua Tiểu Khu họp. Thời gian chờ đợi quyết định chiến hay hàng của vị Tiểu Khu Trưởng, tôi thấy nó dài lê thê làm sao ấy. Hơn hai giờ chiều Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng trở về đơn vị với vẻ mặt buồn thảm. Xuống khỏi xe, ông đưa mắt nhìn nhóm sĩ quan đang đứng đợi ông trước phòng Trực rồi quay đầu lặng lẽ bước đi. Chẳng ai bảo ai, sĩ quan các cấp đồng loạt bước theo sau ông tiến vào văn phòng. Vừa ngồi xuống ghế, Ðại úy Chinh lên tiếng hỏi ngay:

- Có lệnh gì mới chưa thưa Thiếu tá?

- Ðại tá Tỉnh Trưởng quyết định bàn giao rồi. Thế là hết!

Ðại úy Chinh bực tức chửi thề:

- Ðm, thật không còn cái nhục nào bằng cái nhục này!

Ngoài câu phát biểu ấy ra, mọi người chẳng ai nói với nhau lời nào. Tôi ngồi bất động như sợ mọi sự di chuyển thân người sẽ làm đau đớn thêm vết thương nước mất nhà tan. Một lát sau Thiếu tá Thanh ngẩng đầu lên nói:

- Thôi, anh Chinh ra cho đánh kẻng tập họp đơn vị để tôi báo tin cho anh em biết.

Khi lệnh bàn giao chính quyền truyền ra, nhiều anh em ôm mặt khóc nức nở. Họ bảo sao còn đầy đủ súng đạn lại phải đầu hàng? Chẳng còn lời nào để diễn tả, để an ủi nhau vì mọi người nếu không khóc ngoài mặt cũng đang khóc trong lòng. Binh Nhất Hoàng, trong nghẹn ngào kể lể với tôi:

- Nhục quá Trung úy ơi, buổi trưa về nhà ăn cơm, gặp mặt mấy đứa con gái trong xóm, nó bảo em: “cởi bộ đồ lính ra đi, tổng thống hàng rồi, tụi em cho mấy bộ đồ đen mà mặc”. Biết tụi nó nói chơi, chớ dân mình mấy ai ưa Cộng Sản. Giờ mà được lệnh đánh, dù có chết em cũng đánh tới cùng.

Ai cũng đau khổ cho phận nước, cũng buồn cho phận mình. Thiếu tá Thanh vẫn một mình trong văn phòng. Tôi bước vào, ngồi xuống ghế mà chẳng biết nói lời gì. Trong văn phòng ông hôm nay, mọi vật đều buồn thảm như cùng mang một cái tang chung. Nhìn lên khuôn hình treo bằng Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên vách, tôi buột miệng nói:

- Sao Thiếu tá không gỡ cất cái Bảo Quốc đi, để nó đấy, lúc họ vào đến đây chỉ gây thêm phiền phức cho Thiếu tá thôi.

Không hiểu người Ðơn Vị Trưởng có nghe tôi nói gì hay không, ông vẫn ngồi bất động. Một lúc sau ông ngước mắt lên nhìn tấm Huân Chương chép miệng thở dài:

- Cả một đời binh nghiệp, tôi mới có nó.

Ông chỉ nói thế rồi lặng im, không đả động gì đến lời tôi đề nghị. Tôi lại hỏi ông:

- Thiếu tá thấy Việt Cộng đã vào trong tỉnh chưa?

- Chưa có ai cả.

Tôi lí nhí trong miệng:

- Xin phép Thiếu tá cho tôi về qua nhà một lát.

Ông khẽ gật đầu.

*

Mấy tiếng đồng hồ sau khi lệnh đầu hàng quỷ quái của Tướng Minh ban ra, con đường chính dẫn vào tỉnh Bạc Liêu vắng vẻ đến lạnh người. Hai bên nhà cửa đều khép kín, lâu lâu mới thấy một cánh hé mở, để lộ ra những khuôn mặt sợ hãi, lấm lét dò xét sự thay đổi bên ngoài. Tôi muốn nhìn thật rõ bộ mặt phố phường mà đơn vị tôi dày công bảo vệ một lần cuối. Tôi cho xe chạy một vòng quanh phố trước khi về nhà. Ngang qua Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tôi thấy chiếc cổng ra vào luôn khép kín, giờ đã mở toang, chẳng còn một binh sĩ nào ngồi trên các vọng gác. Phố xá Bạc Liêu như lịm chết, tĩnh mịch, hoang vắng, không một hàng quán nào còn mở cửa, không một sự mua bán nào được đổi trao. Tôi chợt nhận ra mình đang lái xe chậm rãi như đi ngắm cảnh, dường như tôi lo sợ tiếng máy nổ lớn sẽ gây kinh hoàng cho mọi người.

Về đến nhà, chưa kịp tắt máy xe, vợ tôi đã bước vội ra cửa ôm chầm lấy tôi. Sau khi nghe tôi kể tình hình trong đơn vị xong, với cái nhìn vô tư vợ tôi nói:

- Em sợ chiến tranh quá rồi, hết đánh nhau, em không còn lo anh bị chết vì súng đạn nữa, em có phải đi làm nuôi anh cũng được.

Tôi quả không ngờ vợ tôi lại nói như vậy, nhưng chắc đó cũng là lối suy nghĩ của hầu hết người dân Miền Nam chân chất, chưa từng có kinh nghiệm sống với người Cộng Sản. Tôi phải nói gì với vợ tôi đây? Tôi không dám nghĩ dông dài, cứ để những lời từ trong đáy lòng tôi tự nhiên phát ra:

- Em đừng mừng vội, kể từ hôm nay, anh chắc không còn lo gì cho em được nữa đâu. Họ đối xử với anh ra sao, anh cũng chưa đoán nổi. Nhưng anh biết chắc chắn một điều, chúng ta sẽ phải sống xa nhau. Không thể yên thân với chế độ sắt máu của họ đâu!

Không mấy tin tưởng vào lời tôi nói, nhà tôi trách:

- Anh nói gì mà nghe ghê quá vậy.

- Anh mong đừng ghê như vậy, nhưng em cũng phải sửa soạn để từ đây tự lo mọi việc một mình. Anh tạt về nhà chốc lát cho em an tâm, giờ anh phải trở vào đơn vị.

- Ăn chút cơm rồi hãy đi anh, lúc ông Minh tuyên bố đầu hàng, em chạy ra chợ quơ đại vài thứ cần thiết, sợ ngày mai không có họp chợ. Người buôn kẻ bán đều sợ hãi, lo thu dọn để mau về nhà.

Tôi đâu còn bụng dạ nào để ăn với uống, nên vội khước từ:

- Thôi, anh ăn trong Tiểu Ðoàn rồi, anh phải đi ngay bây giờ.

Tôi đứng lên lấy chiếc nón sắt đội lên đầu bước vội ra cửa, vợ tôi hỏi với theo:

- Tối nay anh có về nhà không?

- Không!

*







 Trong lúc tôi đang lum khum dựng xe, Thiếu tá Thanh đi kiểm soát các vọng gác về ngang qua đó, thấy tôi ông tiến lại ân cần hỏi thăm chuyện nhà tôi, rồi bùi ngùi thổ lộ:

- Tôi đã cất cái Bảo Quốc đi rồi.

Nói xong, tôi cùng ông lặng lẽ bước đi. Vào đến văn phòng, chúng tôi lại ngồi im lặng cúi đầu, để mặc cho nỗi đau gậm nhấm. Một lát sau, tôi ngước nhìn lên tấm vách, khung ảnh tấm Huân Chương không còn nữa. Chợt mắt tôi dừng lại ngay tấm ảnh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vẫn còn treo nguyên nơi trang trọng nhất trong căn phòng. Tôi lại buột miệng lên tiếng:

- Ðến giờ phút này rồi mà Thiếu tá còn để hình Tổng Thống trên vách làm chi nữa?

Ông chép miệng thở dài:

- Bề nào cũng là cấp chỉ huy của mình.

Mỗi lời ông nói, mỗi cử chỉ ông làm, khiến tôi càng thấy rõ sự trung tín tuyệt đối nơi con người ông. Nó khơi dậy trong tôi hình ảnh ngày đầu tiên ông đến nhận Tiểu Ðoàn.

Bởi không muốn được tiếp đón rình rang nên ông chẳng báo cho một ai biết trước ngày giờ ông đến. Như một vị khách bình thường, ông ngồi một mình ngoài phòng Tiếp Tân chờ cho đến lúc Ðại úy Chinh ra đưa ông vào văn phòng. Sau khi các sĩ quan tề tựu về Tiểu Ðoàn đông đủ, lúc ấy mọi người mới biết ông chính là vị tân Tiểu Ðoàn Trưởng. Hỏi han sĩ quan các cấp xong, ông bảo tập họp toàn đơn vị lại cho ông nói chuyện. Dáng người ông cao ráo thanh tao, không mập không ốm hợp với mái tóc hớt cao làm nổi bật gương mặt cương nghị nhưng hiền từ nhân hậu, đã thu phục ngay cảm tình của mọi người. Sau lễ nghi chào kính, Ðại úy Chinh bước ra nói đôi lời giới thiệu về ông. Ông ra lệnh cho mọi người ngồi thành vòng tròn, giống như các buổi sinh hoạt Chính Huấn. Ông đứng vào chính giữa hàng quân, với giọng nói chân tình nồng ấm của người miền Nam, ông mở lòng mình ra tâm tình cùng quân nhân các cấp trong đơn vị:

- Trước tiên tôi xin tự giới thiệu, tôi Thiếu tá Lương Duy Thanh, hôm nay về đây nhận chức vụ Tiểu Ðoàn Trưởng của các anh em. Dòng họ Lương nhà tôi chia làm hai hệ phái, một hệ phái lương thiện và một hệ phái “lương” lẹo. Tôi thuộc hệ phái lương thiện.

Mọi người cười ầm lên khi nghe ông tự đem tên họ mình ra đùa cợt ví von. Chờ dứt tiếng cười, ông nói tiếp:

- Vì vậy nếu anh em thấy tôi làm việc gì mà lươn lẹo, anh em nhớ cho tôi biết ngay để cảnh tỉnh và sửa sai cho tôi. Giờ mọi người đều biết tôi là Tiểu Ðoàn Trưởng, là sếp lớn nhất ở đây, nhưng anh em lại chưa biết ai là sếp của tôi?

Nói đến đây, ông ngừng lại, đảo mắt nhìn khắp hàng quân vẫn ngồi im như tờ. Ông mỉm miệng cười hóm hỉnh, chậm rãi nói tiếp:

- Tôi xin nói ngay, người ấy chính là bà xã tôi.

Tiếng cười thoải mái vang lên, làm mọi người quên đi cái nóng hâm hấp ban trưa bên trong hội trường.

- Tôi xin anh em nhớ giùm một điều, tất cả anh em trong Tiểu Ðoàn đều làm việc với tôi chớ không phải với sếp của tôi. Nên mọi chuyện lớn nhỏ xảy ra trong đơn vị, xin mấy anh em đừng bao giờ cho sếp tôi biết và cũng đừng đến hỏi han, nhờ cậy gì bà ta cả. Chữ lương họ của tôi chỉ cho phép tôi sống bằng lương lính, nếu xài thiếu, sếp tôi sẽ trợ cấp thêm, đó là lương vợ, tiền do bà xã tôi buôn bán kiếm được ngoài chợ. Tôi không có quyền lãnh lương do các anh em phát vì tôi không làm việc riêng cho bất cứ một ai. Anh em có hiểu lời tôi nói không?

Cả hội trường vang lên tiếng “hiểu” thật lớn. Ông nói tiếp:

- Tôi chỉ có bấy nhiêu lời đó tỏ thật với các anh em trong lần đầu gặp mặt này, xin anh em nhớ và làm đúng như lời tôi nói, để giúp tôi chu toàn bổn phận và trách nhiệm do thượng cấp trao phó.

*

Lời ông nói, việc ông làm cho đến hôm nay sau hơn một năm trôi qua, tôi không thấy có điều gì sai chạy. Ngồi trầm ngâm nhớ chuyện quá khứ xong tôi lại lên tiếng hỏi ông:

- Ðã có lệnh buông súng rồi, vậy chừng nào họ vào tiếp thu Tiểu Ðoàn mình, thưa Thiếu Tá?

- Lúc Ðại tá Ðiệp và các vị Trưởng Phòng họp về chuyện bàn giao, tôi thấy buồn nản quá xin phép về trước, vì vậy tôi không rõ họ tính toán những gì. Có lẽ chiều hoặc tối nay Việt Cộng sẽ kéo vào trong tỉnh, nhưng đêm nay mình vẫn phòng thủ nghiêm ngặt như thường. Anh ra sửa soạn súng ống ngay để một lát nữa tôi, anh và Trung úy Ngộ trưởng ban Ba, qua bên Ðại Ðội Khai Thác Chỉ Huy trấn an anh em.

Tôi thấy thương và cảm phục người Tiểu Ðoàn Trưởng tôi quá đỗi. Từ khi có lệnh đầu hàng, dường như chẳng có giây phút nào ông nghĩ cho riêng mình.

Hơn ba giờ chiều, trang bị súng ống cá nhân xong, tôi và Trung úy Ngộ lên văn phòng trình diện, ông ra lệnh tiếp:

- Hai anh xuống kho súng lấy thêm mỗi người một cây M16 với đầy đủ cấp số đạn, bởi Việt Cộng sắp vào trong tỉnh rồi. Trên đường đi, hai anh phải thật bình tĩnh, nếu họ bắn, ta sẽ bắn lại. Chấp nhận bàn giao là làm theo lệnh thượng cấp, nhưng tuyệt đối không để họ làm nhục chúng ta được.

Tôi và Ngộ như hai tên cận vệ ngồi vào băng ghế sau chiếc xe Jeep ôm súng hộ tống vị Tiểu Ðoàn Trưởng. Xe ra đến phố, cảnh tượng khác hẳn với lúc trưa khi tôi trở về nhà. Dân chúng từ đồng ruộng lũ lượt kéo ra hợp cùng đám con nít khu phố làm phố phường huyên náo mất hết trật tự. Bạc Liêu đang dần dần đổi chủ, người thành thị vào ẩn mình trong nhà, nhường đường phố lại cho một số dân ruộng lố nhố ăn bã dấy phần...

Ðại úy Vui ra tận bên ngoài cổng đón chúng tôi, ông đứng nghiêm đưa tay lên chào Thiếu tá Thanh xong, với giọng chất chứa đầy ưu tư, ông nói như kể lể:

- Có Thiếu tá sang đây tôi đỡ lo, người các phòng ban trong Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn đã bỏ đi hết cả, tôi bảo anh em cố giữ tốt các hệ thống liên lạc như thường ngày và đợi lệnh Thiếu tá.

Ngoại trừ một số người bận trực ra, mọi quân nhân Ðại Ðội Khai Thác Chỉ Huy đều có mặt để nghe Thiếu tá Thanh nói chuyện. Là những người nắm giữ toàn bộ hệ thống liên lạc của cả Sư Ðoàn, nên mọi diễn biến xảy ra trong suốt thời gian qua các anh đều biết rất rõ. Nhưng khi nghe chính miệng vị Tiểu Ðoàn Trưởng mình bảo phải tuân lệnh thượng cấp buông súng bàn giao, tôi vẫn nghe được tiếng nấc nghẹn trong hàng quân.

Cảm động nhất là khi qua thăm toán nhân viên Ðài Siêu Tần Số. Cả toán năm người ra hết bên ngoài đứng đợi. Xe vừa đến nơi, Trung sĩ I Ðặng chạy lại ôm chầm lấy Thiếu tá Thanh, nước mắt ràn rụa mếu máo nói:

- Bộ Ðại tá Tỉnh Trưởng ra lệnh hạ vũ khí thật rồi hả Thiếu tá! Em tức quá.

Nói đến đây anh nấc lên nghẹn lời. Tôi và Ngộ phải quay mặt đi nơi khác. Tôi không dám nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên gương mặt cương nghị sạm nắng gan lỳ của anh. Dù cố kềm hãm nhưng mắt tôi vẫn cay, Thiếu tá Thanh đứng bất động một lát rồi đưa tay vỗ lên vai Ðặng nói:

- Thôi đừng khóc nữa em, giờ phút này chúng mình không thể làm gì khác hơn được đâu!

Ðặng vẫn nói trong tức tưởi:

- Thiếu tá cho phép em về Tiểu Ðoàn ở tạm đêm nay, em sợ chút nữa tụi Việt Cộng vào đến đây, thấy gai con mắt, chắc em bắn tụi nó quá. Em mà bắn sẽ gây họa lớn cho anh em mình.

- Ừ được, em vào thu xếp đồ đạc đi, để tôi nói chuyện với anh em trong đài xong, chúng ta cùng về bên Tiểu Ðoàn.

Ðúng năm giờ chiều, xe lăn bánh quay về đơn vị. Phố phường như đã bắt đầu đổi chủ. Việt Cộng và dân ruộng đổ vào trong tỉnh muốn làm những chủ nhân mới của thị xã Bạc Liêu này. Người ngồi trên xe lôi, kẻ đi bộ, người ôm súng khua tay múa chân hò reo nhảy mừng. Họ bất chấp xe cộ, bất chấp luật lệ lưu thông, cứ nghênh ngang ra giữa đường, đi trong phố mà như đang lội ruộng. Thấy xe chúng tôi chạy qua, nhiều kẻ lôi súng ra cho đạn lên nòng, như muốn chận bắt người cướp xe.

Thiếu tá Thanh mím môi, giọng đanh lại, ông lệnh cho tài xế:

- Anh cứ lái thật bình tĩnh, chỉ ngừng lại khi có lịnh tôi, đứa nào hung hăng chặn đường cứ cán bỏ.

Xe chạy được một lát, tài xế bị buộc phải giảm tốc độ vì mấy chiếc GMC chở đầy “cựu” tù binh Cộng Sản chạy cản đường phía trước. Rõ thật khôi hài. Ngày 25-4-1975, Tiểu Khu Bạc Liêu mở cuộc hành quân truy lùng và đánh thắng một trận lớn, hạ hàng trăm Việt Cộng tại trận, bắt sống gần năm mươi tên. Những tên Cộng Sản bị bắt, được xe chở quanh phố cho đồng bào xem mặt. Hôm đó, có bầy con nít chạy theo xe chỉ trỏ, hò hét “Ðả đảo Cộng Sản”. Hôm nay, chắc cũng toán Việt Cộng ấy lại được chở đi cho bầy con nít chạy theo nhảy múa, hô to khẩu hiệu “Hoan hô Giải Phóng” theo đúng giọng điệu mấy tên ngồi trên xe.

Sự hiện diện của chiếc quân xa chở theo năm người súng đạn cầm trên tay, quân phục chỉnh tề, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, đã là cái gai trước mắt các cán binh Cộng Sản. Họ la ó, hầm hừ như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi. Ðưa được chiếc xe “đi đến nơi về đến chốn”, người chiếm công đầu chính là Hạ sĩ I Tân tài xế.

Tân vốn người hiền lành chất phác, luôn vui vẻ cùng đồng đội, tận tụy với công việc được trao phó. Hôm nay trước tình thế “dầu sôi lửa bỏng”, tôi mới nhận ra sự bình tĩnh, gan dạ ẩn dấu trong con người Tân. Nhìn gương mặt cương nghị, đôi môi mím chặt, đôi mắt khi nhìn thẳng; lúc liếc dọc liếc ngang đều như muốn chọc thủng mọi vật cản trước đầu xe. Tân gồng đôi bàn tay nắm thật chặt vô lăng, giữ cho chiếc xe không bị chao đảo. Ðó là một trong những hình ảnh sống động trong tôi mỗi khi nhớ về biến cố 30-4 của cuộc đời mình. Xe về đến đơn vị, tôi cảm thấy như mình vừa vượt qua được bầu không khí đông đặc đến lạnh người.

*

Trở về nơi làm việc, đầu tôi rối tựa tơ vò. Nhìn lên tấm bảng trưng bày các công tác Chiến Tranh Chính Trị, những ảnh chụp cảnh sinh hoạt vẫn còn nằm nguyên ở đấy. Tôi tiến đến xé nát từng tấm một, như xóa đi dấu tích in đậm nét các việc tôi làm. Lòng tôi tan nát theo từng mảnh giấy. Nhìn sang bàn bên cạnh, Mẫn đang xếp lại bộ quần áo dân sự, tôi lên tiếng:

- Anh mang đồ sơ vin vào đây làm gì vậy?

- Mặc quân phục ra đường lúc này ớn quá, tôi mang bộ đồ này vào để thay mỗi khi về nhà ăn cơm.

Nhớ đến tủ hồ sơ An Ninh, tôi nhắc điện thoại gọi qua Sư Ðoàn, Hạ sĩ Hòa tổng đài viên báo cho tôi biết ngay:

- Phòng An Ninh chẳng còn ai nữa đâu Trung úy ơi!

Tôi chán nản buông ống nghe xuống, quay sang hỏi Thượng sĩ Mẫn:

- Lúc trưa tôi dặn anh lo vụ hồ sơ An Ninh, anh lo xong chưa?

- Tôi gọi qua phòng An Ninh nhiều lần, nhưng chẳng gặp một ai, hay Trung úy lên trình Thiếu tá xem sao.

- Ðược, để tôi lên hỏi ông.

Bên ngoài trời đã nhá nhem tối, nhìn vào văn phòng, Thiếu tá Thanh ngồi bất động như một bóng ma. Bước vào, tôi lên tiếng:

- Sao Thiếu tá không bật đèn lên?

- Lúc này tôi không cần ánh sáng!

Tôi ngồi xuống ghế lên tiếng hỏi tiếp:

- Thưa Thiếu tá, tôi cố liên lạc với phòng An Ninh, hỏi họ về việc thiêu hủy hồ sơ. Bên phòng chẳng còn một ai. Tôi trình sự việc này lên để Thiếu tá quyết định.

Ngẫm nghĩ một lát, ông chán nản thốt lên:

- Bây giờ không cần lệnh lạc gì nữa. Thiêu hủy hay không là tùy nơi anh.

Nếu được toàn quyền, tôi đã thiêu hủy ngay từ ban sáng, nhưng đến bây giờ vẫn chưa muộn. Nhớ lại cảnh ngồi trên xe chạy qua phố hồi chiều, nghĩ tới bộ quần áo sơ vin trên tay Mẫn, tôi lại hỏi:

- Thưa Thiếu tá, khi họ vào đây, mình sẽ mặc quân phục hay thường phục?

Ông nghiêm ngay nét mặt, quắc mắt lên, nhìn thẳng tôi, nói như mắng:

- Anh còn tư cách của một người quân nhân hay không?

Tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình. Từ ngày làm việc với Thiếu tá Thanh đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi bị ông mắng và tỏ vẻ phiền trách. Tôi không chút giận hờn mà càng kính phục ông thêm. Trước lúc trở về ban mình, tôi lý nhí trong miệng:

- Tôi xin lỗi đã hỏi Thiếu tá câu vừa rồi.

Về đến bàn làm việc, trời tối hẳn, tôi bảo Thượng sĩ Mẫn, hãy tìm cách thiêu hủy hồ sơ. Ít phút sau, Mẫn cùng vài ba anh em binh sĩ khệ nệ khiêng về phân nửa cái phi cũ đặt nơi phía sân sau, rồi phụ giúp tôi lôi hết giấy tờ ra châm lửa đốt. Tôi đốt sạch hai tủ hồ sơ, không để lại một mảnh giấy lộn.

*

Từ hướng Quốc Lộ 4 dẫn xuống Cà Mau, ánh đèn xe di chuyển liên tục làm sáng cả một góc trời. Các đoàn xe ấy đang chở Việt Cộng và đám dân ruộng vào thành phố. Lòng tôi se lại mỗi lúc tiếng reo hò rót vào tai. Một vài tiếng chửi thề bực tức vang lên đâu đó, tôi không hiểu đồng đội tôi chửi đổng hay chửi chính bản thân mình? Hoặc chửi mấy tên côn đồ một sớm một chiều bỗng trở thành kẻ chiến thắng.

Tôi buông màn nằm xuống giường nhưng không tài nào chợp mắt. Từng cơn gió thoảng đưa hơi nóng từ đống tro tàn hồ sơ còn âm ỉ, làm căn buồng oi bức thêm. Ðịnh nhắc điện thoại lên gọi nói chuyện với nhà tôi, nhưng tôi không nghĩ ra lời nào cần nói trong giờ phút này. Ngày mai khi người Cộng Sản vào đây, họ sẽ đối xử với anh em chúng tôi ra sao? Tôi lúc mê lúc tỉnh chập chờn như người mang tâm bệnh.

Bỗng tôi vùng dậy thật nhanh khi nghe nhiều tiếng ồn ào như có cuộc đánh nhau phía ngoài cổng. Lúc tôi chạy đến nơi thì cũng vừa lúc Thiếu úy Minh sĩ quan trực đêm ra tới. Mấy chục anh em binh sĩ đứng vây quanh Hạ sĩ Trung, còn Trung vừa nói vừa múa tay múa chân như người đang giảng giải một thế quyền. Thấy tôi, Trung tiến đến đứng trước mặt, hít một hơi dài rồi kể lại từ đầu câu chuyện:

- Hàng chục tên Việt Cộng mới nhào vô đơn vị mình Trung úy ơi. Lúc đó chỉ có em và ba đứa nữa đứng gác trước cổng, nên mới bị tụi nói giựt mất một khẩu M16 và một khẩu M79. Nếu không tuân lệnh Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng, em đã nổ súng hạ ngay mấy tên đó rồi. Trong lúc giằng co, em dùng báng súng dộng một thằng bể đầu. Khi anh em mình ra tới, tụi nó hăm dọa sẽ quay trở lại trả thù rồi khiêng thằng bị thương chạy mất.

Nghe xong tôi liền khuyên can:

- Các anh em phải thật bình tĩnh, tôi và Thiếu úy Minh sẽ thảo luận phương cách đối phó với họ.

Tôi và Minh vừa bước vào phòng sĩ quan Trực, chưa kịp nói với nhau lời nào thì tiếng huyên náo lại vang lên trước cổng. Trung sĩ I Có, hạ sĩ quan Trực bước đến trước mặt tôi và Minh báo cáo:

- Trình Trung úy và Thiếu úy, có một toán Việt Cộng trang bị súng ống đầy đủ đang đứng trước cổng, đòi cho vào gặp Ðơn Vị Trưởng.

Tôi quay sang Minh:

- Tôi và anh ra ngoài ấy xem sao.

Tuy ngoài miệng tôi ăn nói mạnh bạo quyết liệt, thực ra tôi chẳng thấy an tâm chút nào vì sắp phải đối đầu với mấy tên Việt Cộng. Chính sự gan lỳ của Hạ sĩ Trung và các anh em binh sĩ giúp tôi lấy lại bình tĩnh mạnh dạn bước đi. Ra đến cổng, nhìn qua bên kia vòng rào kẽm gai, tôi đếm được khoảng mươi tên Cộng quân, kẻ đứng kẻ ngồi chồm hổm, áo quần lôi thôi lếch thếch, mang đủ loại súng ống, nào B40, M16, AK... Thấy tôi và Minh ra tới, một người đeo khẩu K54 xệ dưới thắt lưng, tiến đến trước mặt tôi hống hách phân trần về sự việc vừa mới xảy ra. Anh buộc chúng tôi phải giao nạp ngay người đã đánh lính anh ta bị thương. Tôi không biết phải giải quyết cách nào, nhìn sang Minh hỏi ý kiến, Minh khẽ lắc đầu. Ngẫm nghĩ một lát, tôi lên tiếng:

- Anh đứng đây chờ, tôi đi trình sự việc này lên cho Ðơn Vị Trưởng tôi biết.

Nói đến đấy, tôi ngừng lại, nhìn thẳng vào mặt viên chỉ huy, cố gằn giọng nói:

- Trong lúc tôi đi, anh phải ra lệnh cho binh sĩ thuộc quyền không được gây bạo động. Báo cho anh biết, đơn vị chúng tôi rất đông, tôi không muốn có một sự việc đáng tiếc nào xảy ra thêm nữa.

Tên chỉ huy nghểnh mặt đáp:

- Ðược! Nhất trí với anh.

Tôi và Minh quay vào phòng sĩ quan Trực. Vừa đi Minh vừa hỏi:

- Giờ Trung úy tính sao?

- Thiệt tình tôi chẳng biết giải quyết bằng cách nào, chỉ còn nước trình cho Thiếu Tá hay, để ông giải quyết.

Ngẫm nghĩ thêm một lát tôi bảo Minh:

- Nghe tôi nói cứng, chắc mấy tên này không dám động tĩnh gì đâu, tôi chỉ sợ mấy anh em mình thấy tụi nó đứng lố nhố gai mắt rồi khảy đại vài viên thì mệt đó.

Minh nhanh nhẩu đề nghị:

- Vậy để tôi ra ngoài cổng ngồi chung với anh em trong lúc Trung úy đi trình sự việc.

Tôi gật đầu rồi bước vội về hướng căn nhà nằm cuối dãy, nơi Thiếu tá Thanh đang ở. Nhìn đèn trong nhà vẫn còn sáng, tôi đưa tay gõ lên cánh cửa. Tiếng ông Ðơn Vị Trưởng từ bên trong hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Thưa tôi Hưởng đây Thiếu tá.

Cánh cửa rộng mở, Thiếu tá Thanh hiện ra nhìn tôi lên tiếng:

- Có việc gì không Hưởng?

Nghe tôi nói năng lắp bắp, ông chỉ chiếc ghế mời tôi ngồi, ôn tồn nói:

- Anh ngồi nghỉ một lát lấy lại bình tĩnh rồi kể rõ sự việc cho tôi nghe.

Ngả lưng xuống ghế, tôi móc túi lấy thuốc ra châm. Hít được vài hơi, cảm thấy trong người tỉnh táo trở lại, tôi nhanh chóng tường thuật mọi diễn biến vừa xảy ra. Thiếu tá Thanh chau mày nghĩ ngợi, một lát sau ông bảo:

- Anh trở ra cho họ vào đợi tôi trước phòng Trực.

Tôi đứng thẳng đưa tay lên chào, rồi lui bước.

Gặp tôi, Minh hỏi nhanh:

- Thiếu tá tính sao vậy Trung úy?

- Thiếu tá bảo, đưa họ vào phòng Trực đợi ông ra giải quyết.

Tôi đến bên hàng rào kẽm gai. Toán Việt Cộng vẫn đứng ngồi nguyên đấy. Tôi nói với viên chỉ huy, nhân tiện cảnh báo luôn toán lính của hắn:

- Trước khi cho anh vào gặp ông Ðơn Vị Trưởng. Tôi yêu cầu anh ra lệnh cho binh sĩ thuộc quyền phải giữ gìn kỷ luật, không được đi lại lung tung. Nếu hai bên xảy ra xô xát, sẽ rất nguy hiểm cho các anh.

Viên chỉ huy lập lại câu nói ban nãy:

- Tôi nhất trí với anh.

Tôi ra dấu bảo người lính gác ra mở cổng, cả toán Việt Cộng lầm lũi bước theo sau tôi tiến vào bên trong doanh trại. Ðến trước phòng Trực, tôi quay lại bảo họ:

- Mấy anh đứng đây chờ tôi đi mời ông Tiểu Ðoàn Trưởng.

Lính tráng trong đơn vị kéo ra mỗi lúc mỗi đông thêm, hai bên lườm nhau chằm chằm, như muốn ăn tươi nuốt sống nhau. Tôi đến bên Thiếu úy Minh nói vừa đủ nghe:

- Trong lúc tôi đi mời Thiếu Tá, anh ra đứng cạnh tên chỉ huy, tìm chuyện này chuyện nọ hỏi han hắn, phòng khi có anh em nào nóng nảy làm bậy mình còn trở tay kịp.

Minh gật đầu, tôi rảo bước.

Cánh cửa nhà Thiếu tá Thanh vẫn mở. Thấy Tôi vào đến, ông lên tiếng hỏi:

- Ðưa họ vào chưa?

- Thưa Thiếu tá, tụi nó đang đứng chờ bên ngoài phòng Trực.

- Ðúng năm phút sau tôi ra tới.

Trở lại phòng Trực, tôi báo cho mọi người biết để sửa soạn đón tiếp ông.

Khi Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng vào đến phòng Trực, tôi dõng dạc hô lớn:

- Vào hàng! Phất!

Mọi người đồng loạt đứng lên, nghiêm chỉnh giơ tay chào. Thiếu tá Thanh chào lại rồi kéo ghế ngồi vào bàn sĩ quan Trực. Toán Việt Cộng đứng bên ngoài ngơ ngác, tỏ vẻ sợ sệt vì không hiểu chúng tôi đang làm trò gì. Chào kính xong, tôi ra dấu bằng mắt để Minh đưa tên chỉ huy vào. Anh ta tiến đến đứng đối diện tôi, dáng dấp không còn hùng hổ như lúc đứng bên ngoài hàng rào. Thiếu tá Thanh ngẩng mặt lên, nghiêm nghị nói:

- Tôi Thiếu tá Lương Duy Thanh chỉ huy đơn vị này, anh cho tôi biết anh là ai? Chức vụ gì?

- Tui là Năm Tất Trung Ðội Trưởng.

- Anh muốn gặp tôi để làm gì?

Năm Tất lập lại những điều gã nói với tôi bên ngoài hàng rào. Dù đã biết rõ sự việc, Thiếu tá Thanh vẫn lắng tai nghe từng lời tường thuật. Năm Tất dứt lời, ông nhìn thẳng vào mặt anh ta, bằng một giọng ôn tồn nhưng đanh thép:

- Tôi lấy làm tiếc cho sự việc vừa xảy ra. Anh có điều tra rõ nguyên nhân không? Anh có biết lính anh đã ngang nhiên vào đây cướp súng đơn vị tôi không? Tôi cho anh biết trong tỉnh Bạc Liêu lúc này có nhiều tên côn đồ xuất hiện. Làm sao binh sĩ tôi phân biệt được người đến giựt súng là côn đồ hay Cách Mạng. Rất may, binh sĩ tôi biết tuân hành kỷ luật, nếu không đã có nổ súng, thì sự việc còn đáng tiếc biết là chừng nào. Chúng tôi đã tuân lệnh bàn giao của thượng cấp. Ngày mai, sau khi giao đơn vị xong, tất cả súng ống ở đây đều thuộc về các anh. Việc gì các anh phải đi cướp giựt. Thuộc cấp tôi báo cho tôi biết, các anh giựt của chúng tôi một khẩu M79 và một khẩu M16. Anh có biết chuyện này không?

Năm Tất ấp úng đáp:

- Có.

- Vậy anh phải ký giấy nhận lính anh đã vào cướp của đơn vị tôi mấy cây súng đó, để ngày mai khi bàn giao, người phía các anh không gây khó khăn cho chúng tôi. Anh biết cách làm việc chứ?

Nói xong ông xé một mảnh giấy trong quyển sổ trực trao cho hắn. Năm Tất lom khom cúi xuống bàn viết tờ biên nhận. Khi trao tờ giấy lại cho Thiếu tá Thanh xong y lại đòi hỏi:

- Giờ tôi yêu cầu anh giao nạp ngay người đã đánh chiến sĩ tôi bị thương.

Nhìn thẳng vào mặt năm Tất, Thiếu tá Thanh gằn giọng:

- Anh đã ký nhận là lính anh vào đây giựt hai khẩu súng. Như vậy người giựt súng có tội hay người giữ súng có tội? Ðã gọi là “chiến sĩ” thì phải biết kỷ cương chứ!

Năm Tất ú ớ không trả lời được, đứng nguyên một chỗ. Thấy vậy, Thiếu tá Thanh mỉm cười rồi nhỏ nhẹ gỡ rối cho hắn:

- Tôi biết... anh nóng lòng vì người bên anh bị thương, nhưng nay anh hiểu rõ mọi chuyện rồi, tôi tin sẽ không còn việc gì rắc rối nữa. Tôi phải về lo xếp đặt mọi thứ để ngày mai bàn giao cho phía các anh, cám ơn anh nhiều.

Quay sang tôi, Thiếu tá Thanh bảo:

- Trung úy tiễn anh năm Tất giùm tôi.

Nói xong ông đứng lên, bước nhanh ra cửa. Năm Tất biết chẳng làm gì hơn được, quay ra ngoài, ngoắc tay gọi đám lính theo y rời khỏi doanh trại.

Năm Tất ra đi tuy không đem ra được người anh ta đòi hỏi, ngược lại hắn đã nhìn rõ chân tướng người lính Việt Nam Cộng Hòa trong uy thế của một quân lực chính quy. Tuy bị buộc buông súng, nhưng không chịu khiếp nhược trước kẻ thù. Không biết anh em trong đơn vị nghĩ gì về sự việc ấy? Riêng tôi thì thở phào nhẹ nhõm vì vừa trút bỏ được mọi sự âu lo trước một vấn đề quá khó khăn. Tôi cũng vừa học được bài học quý giá về sự bình tĩnh trước sự đòi hỏi phi lý của kẻ tự coi mình chiến thắng. Thế mới biết, không chỉ vâng phục theo mọi mệnh lệnh của người Cộng Sản là được an thân. Mình tiến thì nó lùi, không dám đặng đằng chân, lân đằng đầu đối với mình.

Sau này gặp lại Năm Tất trong trại tù, ngụy trang dưới mỹ danh học tập cải tạo. Nhận ra tôi, anh đến gần nói vài câu xã giao xong, anh nhắc lại chuyện cũ rồi thổ lộ:

- Tôi rất cảm phục người Ðơn Vị Trưởng của anh, mọi người bên “ngụy” mà đều như anh ta thì sự việc đã đổi khác rồi.

Tôi cũng bảo anh ta:

- Bây giờ ông Ðơn Vị Trưởng tôi đang là “chiến lợi phẩm” của Cách Mạng rồi đó!

Suốt đêm hôm ấy, không riêng gì tôi mà hầu như mọi anh em trong đơn vị đều thức trắng, chia sẻ với nhau nỗi đớn đau từ khi có lệnh buông súng, nỗi ưu tư về một tương lai u tối. Ngoài chuyện Việt Cộng vào giựt súng, không còn sự việc gì đáng ghi nhớ xảy ra.


Danh Dự - Trách Nhiệm

Tôi bước ra khỏi giường ngủ lúc trời tờ mờ sáng, trên người vẫn còn mặc nguyên bộ quân phục từ hôm qua. Tờ lịch trên vách vẫn còn nguyên ngày 30-4-1975. Với người khác đã bước sang một ngày mới, riêng quân nhân Tiểu Ðoàn 21 Truyền Tin, ngày đau thương nhất nước, ngày đau thương nhất đời vẫn còn đang tiếp diễn. Ðồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 6 giờ sáng, tức giờ thứ 30 của biến cố 30-4 trong tôi. Nghĩ đến người Ðơn Vị Trưởng đáng kính, tôi quyết định thay bộ quân phục mới. Dù bị buộc phải làm kẻ chiến bại, nhưng hình hài tôi không thể nhầu nát trước mặt đối phương. Thay xong bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp, như một phản ứng tự nhiên, tôi bước thẳng xuống Câu lạc bộ tìm ly cà phê buổi sáng. Vừa đi tôi vừa nghĩ, chẳng biết hôm nay Câu lạc bộ có mở cửa không? Tôi có ngay câu trả lời, bởi mũi tôi vừa ngửi được mùi cà phê thơm phức quen thuộc.

Bước vào bên trong, chẳng còn chiếc ghế nào trống. Thấy tôi nhìn quanh tìm chỗ ngồi, một anh binh sĩ đứng lên nhường tôi chiếc ghế, tôi kéo lại ngồi bên cạnh Ðại úy Trần Duy Chinh. Ðại úy Chinh, tuy là sĩ quan ở Tiểu Ðoàn lâu nhất, tuổi đời và tuổi lính ông hơn xa nhóm sĩ quan trẻ chúng tôi. Nhưng khi nói chuyện với đàn em, không khi nào ông xưng hô mày tao chi tớ. Ông nói năng nhỏ nhẹ, miệng luôn tươi cười như một thư sinh yêu đời. Sáng nay nét vui tươi bình thường trên gương mặt ông biến mất hẳn. Tôi hỏi thăm:

- Ðêm qua Ðại úy ngủ được không?

Ông lắc đầu chán nản nói như lời tâm tình:

- Ông thấy không, từ lúc mất Ban Mê Thuột đến giờ, Quân Lực mình như bị trói tay, có được đánh đấm gì đâu, chỉ toàn di tản, bỏ dân bỏ đất cho Cộng Sản. Ðến giờ phút này, từ Sàigòn xuống tận Cà Mau, lực lượng mình vẫn còn nguyên vẹn, nhưng bị buộc phải buông súng, tôi thấy đau lòng quá.

Tôi buồn bã tiếp lời:

- Tôi nghĩ, mất Miền Nam bởi thiếu cấp lãnh đạo có khả năng, chớ không phải vì người lính Miền Nam yếu hèn hơn người lính Bắc Việt. Tướng Dương Văn Minh là Tổng Tư Lệnh Tối Cao lại ra lệnh đầu hàng. Chúng ta, những người lính được huấn luyện chỉ biết làm người thi hành mệnh lệnh thượng cấp, thì còn làm được gì để xoay ngược tình thế? Ðại úy thấy không, mọi lời bàn tán, mọi điều suy tư trong lúc này đều lâm vào bế tắc. Vì chúng ta không được quyền chiến đấu, thì đương nhiên không thể bảo rằng Quân Lực này chiến bại được.

Mọi lời nói, mọi lối nghĩ suy chỉ để thoát bớt niềm đau đớn cho chính mình và đồng đội, chớ ai cũng đều biết thể chế Việt Nam Cộng Hòa đã bị cáo chung.

Hôm nay Câu lạc bộ có gì đãi nấy, chẳng còn bán buôn gì trong giờ phút này nữa. Trung sĩ I Mạch Văn Hồng người trực tiếp trông nom, chỉ muốn chu toàn nhiệm vụ đến giờ phút cuối, nên vẫn mở cửa như thường lệ đãi đằng anh em. Mang ly cà phê nóng đến cho tôi, Hồng bảo:

- Hôm nay còn cái gì tôi đem ra mời anh em. Ăn uống không hết, tôi đổ bỏ, chỉ để lại cho bọn quỷ đỏ cái nhà Câu lạc bộ trống không này thôi.

Lúc tôi rời Câu lạc bộ, Hạ sĩ Vinh bước vào. Vinh giơ tay chào tôi. Nhìn lên, thấy đầu Vinh không còn một sợi tóc, tôi ngạc nhiên hỏi:

- Sao cạo đầu vậy Vinh?

Vinh bùi ngùi:

- Em cạo đầu để tang cho Tổ Quốc!

Vinh là quân nhân ngang bướng nhất đơn vị. Chỉ mỗi mái tóc thôi, tôi phải phạt lên phạt xuống, bắt cắt đi cắt lại ba bốn lần, nhưng tóc anh vẫn dài. Vậy mà hôm nay Vinh lại tự cạo đi mái tóc. Nhìn cái đầu trọc với gương mặt buồn xo, tôi thấy thương Vinh vô hạn.

Lời nói cùng việc làm của Hồng và Vinh biểu tỏ cho tôi thấy đôi chút tâm tình của người lính Miền Nam trước lúc chịu bức tử. Một vài hành động, một vài cử chỉ tuy rất nhỏ nhặt đơn sơ nhưng giúp họ toát bớt được phần nào ấm ức chất chứa trong lòng.

*

Ðúng giờ thứ 32 ngày 30-4-1975, tức 8 giờ sáng ngày 1-5-1975 nếu tính theo giờ đồng hồ, kẻng tập họp trỗi lên như thường lệ. Mọi người tiến nhanh ra sân cờ. Trong mắt tôi hàng quân hôm nay đông đủ hơn, kỷ luật hơn mọi ngày. Thượng sĩ Thường Vụ điểm danh xong, báo cáo quân số lên Ðại Ðội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ, Ðại úy Chinh rời hàng quân bước vào văn phòng trình diện Tiểu Ðoàn Trưởng. Khi Thiếu tá Thanh và Ðại úy Chinh tiến ra sân cờ, Thiếu úy Minh sĩ quan Trực dõng dạc hô lớn:

- Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng đến. Nghiêm! Chào tay! Chào!

Bàn tay mọi người đồng loạt giơ lên đặt ngang vành nón sắt. Thiếu tá Thanh dừng bước, đứng trong tư thế nghiêm chào hàng quân. Minh dõng dạc tiếp tục điều khiển buổi lễ:

- Phất! Thao diễn nghỉ!

Thủ tục chào kính xong. Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng đưa mắt nhìn khắp hàng quân, ông hít một hơi thật mạnh, với giọng đầy xúc động, ông chậm rãi nói như mở lòng ra cùng thuộc cấp:

- Thưa tất cả anh em. Cho đến giờ phút này chúng ta vẫn còn là người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta vẫn có thể hiên ngang kéo lá Quốc Kỳ lên. Nhưng người Cộng Sản đã vào đến thành phố, những người thân yêu của chúng ta và toàn dân Miền Nam đã lọt vào tay họ. Trước lúc bước ra đây, tôi tự hỏi lòng: có nên kéo lá cờ lên cho ngạo nghễ tung bay thêm vài giờ, rồi để người Cộng Sản lôi nó xuống chà đạp sau khi họ vào tiếp thu đơn vị không? Hay mỗi người chúng ta tự cất giữ, bảo vệ lá Quốc Kỳ trong lòng mình? Nghĩ vậy nên tôi quyết định, buổi chào cờ hôm nay không có lá Quốc Kỳ. Chúng ta hãy xem lá Quốc Kỳ thân yêu mà chúng ta và biết bao người đổ máu bảo vệ nó, đã được kéo xuống từ lúc vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Nhưng tôi tin, lá Quốc Kỳ sẽ tồn tại mãi trong lòng tôi, trong lòng các anh em và trong lòng người dân Miền Nam chiến đấu cho lý tưởng Tự Do.

Thiếu tá Thanh ngừng lại giây lát, thêm một lần nữa ông đưa mắt nhìn khắp hàng quân. Mọi người đều đứng im cúi mặt lắng nghe. Ông nói tiếp:

- Tất cả hãy đồng một lòng ngước mắt nhìn lên cột cờ, tưởng như lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay phất phới. Chúng ta vẫn vẫn có thể đồng hát bản Quốc Ca, nhưng lời ca tiếng hát giờ đây có còn gây hưng phấn cho dân chúng như mọi ngày không? Hay nó đem lại cho họ sự lo sợ? Vì vậy, chúng ta sẽ hát Quốc Ca thật lớn, nhưng... hát ở trong lòng.

Thêm một lần nữa Thiếu Tá Thanh ngừng nói, như để từng lời ông tâm tình, ngấm sâu vào lòng mỗi người lính. Ông đảo mắt khắp hàng quân rồi ban lệnh:

- Bây giờ anh em chuẩn bị làm lễ chào Quốc Kỳ.

Theo thường lệ, sĩ quan Trực là người điều khiển buổi lễ chào cờ. Nhưng hôm nay, Thiếu tá Thanh trực tiếp làm mọi chuyện. Ông hô to:

- Nghiêm!

Hàng quân đồng loạt làm theo lệnh ông.

- Lễ chào Quốc Kỳ bắt đầu! Chào tay! Chào! Thượng kỳ! Quốc Ca!

Mọi người đứng im phăng phắc, mắt ngước nhìn lên cột cờ. Tôi như thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ đang từ từ kéo lên. Tôi trút bỏ hết những ưu tư trong người, để lòng mình hòa vào từng câu hát. Lời ca không được phát ra bên ngoài nên tôi nuốt trọn nó vào lòng. Nhìn sang hàng quân đối diện, môi ai cũng mấp máy. Tôi quay về thực tại khi tiếng hô dõng dạc của ông Tiểu Ðoàn Trưởng vang lên:

- Phất! Thao diễn nghỉ! Một phút mặc niệm các chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc! Nghiêm! Chào tay! Chào!

Bầu không khí linh thiêng bao phủ khắp sân cờ. Tôi như thấy hồn thiêng sông núi đang lẩn khuất đâu đây. Tôi cúi đầu nhận tội với tiền nhân vì không làm tròn trách nhiệm với quê hương đất nước. Tâm tư tôi thoáng hiện hình ảnh bạn bè, đồng đội và những người đã hy sinh trong cuộc chiến, nghĩ đến nỗi đau khổ của Quân Dân Miền Nam... Trong người tôi không còn chỗ chứa những niềm đau, những nỗi uất hận. Tôi nghe tiếng nấc nghẹn đâu đó trong hàng quân, tiếng khóc cứ lan dần, lan dần,... đến lúc này thì tôi không còn kềm hãm nổi mình nữa, để mặc nước mắt tuôn trào. Hầu như mọi người đều khóc. Phút mặc niệm qua đi, Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng đứng nghiêm chào đoàn quân rồi nói trong nghẹn ngào:

- Thôi các anh em tan hàng.

Thiếu tá Thanh cúi mặt bước vội vào văn phòng, mọi người cũng lặng lẽ rời sân cờ.

*

Trong đơn vị tôi ngoài anh em cơ hữu ra còn có khoảng ba mươi khóa sinh do các đơn vị thuộc Vùng IV Chiến Thuật gởi đến thụ huấn khóa học chuyên môn về Truyền Tin. Tuy là lính mới, nhưng tất cả đều tuân hành kỷ luật nghiêm minh. Lúc tôi đang thơ thẩn đếm bước đi không định hướng. Anh trưởng lớp đến chào tôi rồi hỏi:

- Thưa Trung úy, hôm nay tụi em có phải vào lớp học không?

Tôi lắc đầu bảo:

- Không có học hành gì nữa, cho anh em về phòng sửa soạn đồ đạc, sẵn sàng rời đơn vị sau khi bàn giao cho Việt Cộng.

Người khóa sinh đi rồi, tôi lê bước trở về ban mình. Trên chiếc bàn làm việc thường ngày, chỉ còn hai cái điện thoại đen nằm trơ trọi. Căn phòng hôm nay như hoang phế, chẳng còn gì ngoài vài bộ bàn ghế và mấy cái tủ hồ sơ trống không. Ngay như cái bảng: “Trung Uý Nguyễn Văn Hưởng -  Sĩ Quan An Ninh - Chiến Tranh Chính Trị”, mới đặt làm mấy tháng trước, tôi cũng quăng luôn vào lửa đốt tối hôm qua.

Thượng sĩ Thanh, với hơn 20 năm quân ngũ, từng là cựu tù binh Cộng Sản, đang ngồi cúi mặt, chống tay lên cằm. Còn Thượng sĩ Mẫn, chẳng biết làm gì, lại lôi mấy bộ quần áo sơ vin ra xếp đi xếp lại. Tôi ngồi một chỗ không yên, bước ra đứng giữa khung cửa, đưa mắt hướng nhìn bên ngoài. Vài anh em binh sĩ ngồi bệt giữa sân cờ trò chuyện, không ai che dấu được nét ưu tư hằn trên gương mặt. Chợt tiếng chuông điện thoại reo vang. Thượng sĩ Thanh uể oải nhắc ống nghe lên. Nói chuyện điện thoại, nhưng người Hạ sĩ quan già này vẫn quen với giọng điệu nói trên máy vô tuyến. Mắt ông mở thật to, còn miệng há hốc ra, chốc chốc lập đi lập lại mỗi điệp khúc:

- Nhận rõ..... nhận rõ...... nhận rõ.

Buông ống nghe xuống, giọng ông như lạc đi:

- Thằng Hòa “Tổng Ðài” vừa báo tin: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, đã dùng súng lục bắn vào đầu tự sát hồi rạng sáng hôm nay rồi!

Hai mí mắt tôi tự nhiên khép lại, đứng như bất động. Một lát sau, tôi bước trở lại bàn làm việc, buông mình xuống ghế, tâm trí hướng về hai vị tướng vừa nằm xuống.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV - Quân Khu IV chưa quá nửa năm, nên tôi chưa có dịp được gặp mặt. Ai cũng biết, ông là một vị tướng suốt đời xông pha nơi trận tuyến, lập biết bao chiến công. Ông được mọi người ngưỡng mộ không chỉ vì là một cấp chỉ huy có tài, mà còn là một người đạo đức thanh liêm. Ông sống độc thân, nên dành hết thời giờ cho đời binh nghiệp và cho quốc gia dân tộc.

Còn với Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, đã lần lượt đảm trách các chức vụ Ðại Ðội Trưởng, Tiểu Ðoàn Trưởng, Trung Ðoàn Trưởng và Tư Lệnh của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Nhưng hình ảnh oai hùng nhất của ông trong tôi lại chính là 2 tháng dài ông tử thủ An Lộc. Những ngày ấy, tôi lo việc thiết lập hệ thống liên lạc cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, đóng tại Tân Khai, cách hầm trú ẩn Tướng Hưng chỉ mươi cây số. Tôi đã thấy hàng ngàn đồng bào Bình Long gồng gánh, bồng bế, dắt dìu nhau, men theo quốc lộ 13 tìm về vùng Quốc Gia. Chúng tôi đã bất chấp quy luật hành quân, cho dân chúng tràn vào tuyến phòng thủ, để họ có nơi trú ẩn, hầu tránh bị thương vong mỗi khi phải hứng chịu những trận pháo kinh hồn.

Cơn mưa pháo có ngày lên tới 7,500 trái, đã biến An Lộc thành bình địa, nhưng không làm nổ tung được ý chí quyết giữ An Lộc, quyết bảo vệ mấy chục ngàn đồng bào Bình Long bị kẹt giữa vùng lửa đạn của Ðại tá Lê Văn Hưng. Nhưng hôm nay, vận nước ngả nghiêng, một viên đạn súng lục đã cướp đi cuộc đời vị Tướng anh hùng.

Tôi ôm mặt, cúi đầu nhắm mắt cầu nguyện, tiễn đưa hương hồn hai vị chỉ huy đáng kính. Trang sử Việt oai hùng có thêm hai vị tướng chết theo thành. Chắc anh linh Tướng Nam, Tướng Hưng giờ này đang hội ngộ cùng Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản,... nơi miền tiên cảnh.

*

Mãi đến lúc ngồi nhìn mấy anh em binh sĩ lăng xăng dọn bữa cơm trưa nóng sốt lên bàn, tôi mới tự hỏi: Thường ngày nhà bếp sĩ quan chỉ nấu cho Thiếu Tá Thanh và vài ba anh em độc thân ăn thôi. Thế mà kể từ trưa hôm qua đến giờ, con số người ăn tăng lên gấp bốn năm lần, chợ búa thì không nhóm họp. Chẳng hiểu Trung sĩ Hỷ làm cách nào để lo tươm tất, đầy đủ từng bữa ăn cho bao nhiêu con người ấy? Tôi muốn hỏi thăm cùng nói đôi lời cám ơn Hỷ, nhưng Hỷ bận việc luôn tay. Cho nên mãi đến bây giờ, lời cám ơn ấy vẫn còn nằm nguyên trong lòng tôi và điều tôi muốn biết cũng sẽ vĩnh viễn là một bí ẩn. Tôi chỉ suy ra được một điều là mọi anh em trong đơn vị tôi, đều cố gắng chu toàn nhiệm vụ của mình cho đến khi phải ngậm ngùi giã từ đời lính.

Nếu tính cho đến giây phút những dòng chữ này được viết ra, tôi đã sống quá nửa thế kỷ, nói chính xác hơn là đã sống gần hai vạn một ngàn ngày, ăn trên bốn vạn bữa cơm. Nếu chỉ được chọn ăn một bữa cơm duy nhất trong đời, tôi không ngần ngại chọn ngay bữa ăn cuối cùng của cuộc đời lính trong ngày 30-4-1975. Tôi vẫn biết bữa ăn hôm ấy không có sơn hào hải vị, không rượu ngon, còn miệng tôi cay đắng nuốt không trôi hết nửa bát cơm. Nhưng lòng tôi no đầy tình đồng đội, cái tình “sống chết có nhau là huynh đệ chi binh”. Tôi cũng ghi tạc từng lời Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng tỏ lòng mình ra cùng các sĩ quan thuộc cấp:

- Tôi rất hãnh diện về tinh thần kỷ luật của anh em trong đơn vị. Trọn ngày hôm qua, tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều về việc ra lệnh cho mọi người đi đâu thì đi hay ở lại đây chờ họ vào? Phủi tay bỏ đi lúc này thật quá dễ. Tôi đã thầm trách các cấp lãnh đạo, các cấp chỉ huy bỏ mặc đồng bào, bỏ rơi đồng đội. Nay chính tôi lại làm như vậy hay sao? Rồi tôi nghĩ đến câu “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” trên huy hiệu người quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Chúng mình đã bị trói tay không bảo vệ được Tổ Quốc, nhưng còn Danh Dự-Trách Nhiệm, tôi phải bảo vệ vẹn toàn. Nghĩ thế nên tôi quyết định ngồi lại đây chờ họ đến, cho họ nhìn thấy tận mắt và hiểu rằng người lính Việt Nam Cộng Hòa không hèn yếu khiếp nhược. Riêng bản thân tôi, tuy không dám chết vinh như hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, nhưng tôi quyết không chịu sống nhục.

Nói xong, ông quay sang bảo Ðại úy Chinh và tôi:

- Khi bọn họ đến đơn vị mình, tôi sẽ ngồi trong văn phòng, anh Chinh và anh Hưởng ra cổng hướng dẫn họ vào gặp tôi.

Một ngày mà không một người Việt Quốc Gia nào tưởng tượng có thể xảy đến đã đến. Chỉ còn vỏn vẹn vài giờ nữa đơn vị tôi chính thức bị giải thể, đời lính của tôi cũng kể như xong. Hơi thở tôi vẫn còn, súng đạn vẫn còn... Nhưng tôi đành bất lực đứng chờ giờ phút cuối của đơn vị, giờ phút cuối của đời lính mình. Trong giờ phút sau cùng này, tôi thấy rõ hơn lúc nào hết cái tinh thần bất khuất không khiếp sợ Cộng Sản của từng người trong đơn vị tôi. Riêng các anh em trông coi hệ thống liên lạc, mỗi lần nhắc điện thoại lên, các anh đều báo ngay cho chúng tôi biết, người đầu dây bên kia là Quốc Gia hay Cộng Sản. Các anh còn nắm vững và báo cáo đầy đủ tình hình các nơi, nên tuy chỉ lẩn quẩn trong vòng rào đơn vị, nhưng mọi diễn biến ngoài tỉnh Bạc Liêu chúng tôi đều hay biết.

*

Ðến giờ thứ 38, tức 2 giờ chiều ngày 1-5-1975, khi một Ðại Ðội Việt Cộng tiến vào đơn vị. Mang danh Ðại Ðội, nhưng quân số chỉ hơn hai mươi người. Họ đến bằng GMC. Chiếc xe ngừng ngay lại giữa cổng chính. Toán lính ngồi trên xe đồng loạt nhảy xuống, làm ra vẻ xung trận, tấn công tiến chiếm mục tiêu, rải người cầm súng chạy chiếm giữ các điểm trọng yếu. Ðêm qua dưới ánh đèn le lói, tôi không nhìn rõ toán quân Cộng Sản. Lúc này giữa ban ngày, những nét rừng rú, quê mùa hiện rõ lên trên từng gương mặt. Họ ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chỉ một vài người mang dép râu còn lại đều đi chân đất. Từ trên ghế trưởng xa, một người đeo khẩu K54, nhảy xuống xe, ông ta cố tạo cho mình dáng vẻ cấp chỉ huy. Nhìn thấy tôi và Ðại úy Chinh đứng trước phòng tiếp tân, ông tiến lại hất hàm lên tiếng hỏi:

- Hai anh có phải là người chỉ huy đơn vị này không?

Ðại úy Chinh đáp:

- Không phải. Anh là ai, cho tôi biết tên và chức vụ để tôi vào trình cho ông Ðơn Vị Trưởng tôi biết?

- Tôi là Thành Biển, Chính Trị Viên Ðại Ðội.

- Anh đi theo tôi.

Thành Biển bước theo sau Ðại úy Chinh và tôi tiến vào văn phòng Tiểu Ðoàn Trưởng.

Trong lúc Thiếu tá Thanh và Thành Biển ngồi nói chuyện. Thì binh sĩ hai bên Quốc - Cộng đứng lườm nhau.

Nửa giờ sau, kẻng tập họp vang lên, theo lệnh Thiếu úy Minh sĩ quan Trực, mọi người nhanh chóng xếp thành hàng lối. Ðiểm danh xong, Ðại úy Chinh ra hiệu cho tôi vào văn phòng mời Tiểu Ðoàn Trưởng. Khi Thiếu tá Thanh cùng Thành Biển ra khỏi văn phòng. Ðại úy Chinh dõng dạc hô to:

- Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng đến! Nghiêm! Chào tay! Chào!

Tiếng hô của Ðại úy Chinh và những cách tay đồng loạt giơ lên chào kính người Ðơn Vị Trưởng làm kinh ngạc toán lính Việt Cộng đến tiếp thu. Nhìn anh em trong quân phục chỉnh tề cùng lễ nghi quân cách trang trọng, đối nghịch hoàn toàn với toán quân ô hợp. Tôi ngậm ngùi tự hỏi. Tại sao chúng tôi lại phải bàn giao quyền lực cho một toán quân như vậy? Hỏi chỉ để cho lòng bớt thổn thức, cho vơi đi sự đau đớn chứ chúng tôi còn làm được gì trong giờ phút này, khi lịch sử đã sang trang. Rồi mai đây, tất cả chúng tôi còn phải phục tùng nghe theo một cách bất đắc dĩ mọi mệnh lệnh của những con người đang đứng đó.

Thiếu tá Thanh đứng nghiêm chào hàng quân xong. Ðại úy Chinh lại dõng dạc hô lớn:

- Phất! Thao diễn! Nghỉ!

Thiếu tá Thanh tiến lên đứng riêng một mình trước mặt hàng quân. Với giọng thật cảm động ông nói lời từ giã:

- Thưa các anh em, đây là lần cuối cùng tôi đứng nói chuyện trước anh em. Tôi cám ơn tất cả quân nhân các cấp. Trong suốt thời gian tôi giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị này, anh em đã giúp tôi chu toàn nhiệm vụ của một người quân nhân. Hôm nay, tuân hành nghiêm chỉnh lệnh thượng cấp, đơn vị chúng ta buông súng bàn giao cho quân “Cách Mạng”. Trước khi từ biệt, tôi có lời khen ngợi tất cả anh em đã giữ đúng tinh thần kỷ luật cho đến giờ phút cuối cùng. Tôi cầu chúc anh em và gia quyến được mọi điều an khang. Sau đây tôi xin giới thiệu anh Thành Biển, Chính Trị Viên Ðại Ðội đến tiếp thu đơn vị chúng ta.

Thành Biển khẽ cúi đầu chào hàng quân. Thiếu tá Thanh nói tiếp:

- Giờ đây tôi trở xuống đứng cùng với anh em và trao quyền lại cho anh Thành Biển.

Nói xong ông đứng nghiêm giơ tay chào hàng quân rồi bước xuống đứng bên cạnh Ðại úy Chinh. Lúc ông lui bước, tôi nghe được nhiều tiếng nấc nghẹn đâu đó...

Thành Biển tiến lên vị trí Thiếu tá Thanh vừa rời khỏi, ông gật đầu chào mọi người. Có lẽ bị khớp trước một hàng quân chỉnh tề, Thành Biển cất giọng run run, nói toàn những lời hoa mỹ:

- Thưa các anh em, nãy giờ tôi và anh Thanh thảo luận với nhau về việc tiếp quản đơn vị. Trước tiên tôi có lời khen tặng tất cả anh em đã tuân hành đúng đắn chỉ thị của Cách Mạng, buông súng đầu hàng tránh đổ máu. Xin các anh em an tâm và vững tin vào chính sách khoan hồng trước sau như một của Cách Mạng, là luôn tha thứ những kẻ lầm đường lạc lối, biết ăn năn hối cải quay về với tổ quốc dân tộc. Chúng tôi sẽ đối xử tử tế với tất cả anh em binh sĩ Cộng Hòa, chẳng những bây giờ mà mãi mãi sau này... cũng vậy. Ðơn vị anh em là đơn vị kỹ thuật, Cách Mạng rất cần sự hợp tác của các anh em để quản lý tốt máy móc. Nếu anh em nào muốn làm việc cho Cách Mạng, tôi sẽ coi như các anh em đã gia nhập Cách Mạng trước ngày 30-4. Còn những ai muốn về quê quán làm ăn sinh sống, tôi sẽ cấp giấy tờ, cung cấp mọi phương tiện để giúp xây dựng lại cuộc đời mới.

Ngừng lại một lát, Thành Biển nói tiếp:

- Bây giờ, những anh em nào muốn phục vụ Cách Mạng, tôi yêu cầu giơ cao tay lên và bước ra khỏi hàng.

Nói xong, Thành Biển đảo mắt nhìn khắp hàng quân. Không một cánh tay nào giơ lên, không một ai bước khỏi hàng ngũ mình. Thấy sự bất hợp tác này làm Thành Biển sụ mặt sượng sùng. Chờ thêm một lát, Thành Biển tiếp tục diễn thuyết:

- Chính sách Cách Mạng luôn tôn trọng tự do con người. Các anh em đều muốn trở về quê quán làm ăn sinh sống, tôi sẽ cấp giấy giới thiệu với chính quyền địa phương để họ giúp đỡ các anh em tái lập lại cuộc sống mới.

Tuy Thành Biển nói toàn lời ngon tiếng ngọt, nhưng tôi và đồng đội không một ai dấu được vẻ ưu tư lo lắng.

“Lễ” bàn giao xong, Thành Biển dè dặt bước vào văn phòng Tiểu Ðoàn Trưởng. Anh ta ngồi vào bàn Thiếu tá Thanh, cấp giấy đi đường cho các binh sĩ và hạ sĩ quan. Còn thành phần sĩ quan, anh cho biết không thuộc quyền quản lý của anh ta, phải đợi lệnh Ủy Ban Quân Quản Tỉnh Bạc Liêu.

Tôi nhìn lại căn phòng làm việc lần cuối, từ cánh cửa, từ bực thềm, từ cái bàn cái ghế, tuy cũ kỹ, đơn sơ, nhưng ghi dấu biết bao ngày tôi miệt mài ở đấy. Những kỷ niệm vui buồn trong căn phòng này sẽ mãi không phai trong tôi. Gần sáu năm sống nơi đây, giờ phải vĩnh viễn lìa xa, làm sao tôi không quyến luyến bịn rịn cho được. Bước sang hội trường, bục thuyết trình nằm trơ trọi trong góc, tai tôi nghe như có tiếng anh em vỗ tay đồng ca theo nhịp quân hành.

Nơi đây tôi đã hun đúc tinh thần binh sĩ, tôi đã hùng hồn biện minh cho sự tất thắng của chính nghĩa Tự Do. Nhưng từ nay về sau, trong hội trường này, trên bục gỗ này, người Cộng Sản sẽ mặc tình khoác lác về chiến thắng vinh quang anh hùng của họ, rồi lên mặt nguyền rủa chúng tôi.

Các binh sĩ cùng các hạ sĩ quan lãnh giấy tờ xong, có người tìm tôi từ giã, có người lẳng lặng ra về. Nghĩ đến vị Tiểu Ðoàn Trưởng khả kính, tôi đi như thất thểu tìm ông. Ông đứng dựa lưng vào cây cột trước căn nhà ông ở, hết nhìn ra sân cờ lại nhìn vào văn phòng nơi ông làm việc. Tôi tiến lại, lẳng lặng đứng cạnh bên, ông quay lại nhìn tôi với đôi mắt thật buồn, tôi lí nhí trong miệng:

- Thưa Thiếu tá, những ngày còn ở lại Bạc Liêu, xin mời Thiếu tá lại nhà tôi ở tạm.

- Cám ơn anh, việc đó tôi sẽ tính sau. Ðêm nay tôi ngủ trong đơn vị.

Ngày 30-4 sắp hết trong tôi, nhưng ngày ấy vẫn còn tiếp diễn nơi ông Ðơn Vị Trưởng. Ðêm nay chỉ một mình ông cô đơn trong doanh trại, không có lấy một anh em đồng đội. Tôi không còn biết làm gì hơn ngoài việc dâng lời cầu nguyện, xin ơn trên ban bình an cho ông. Bắt tay từ giã, tôi thấy trong đôi mắt sâu thẳm của ông tuy buồn nhưng ánh lên nét bất khuất của một quân nhân.

Bước chân ra khỏi cổng là tôi vĩnh viễn rời xa nơi này, ngày chia tay với đơn vị của tôi sao quá buồn thảm. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ nửa xanh nửa đỏ của Việt Cộng vừa mới kéo lên lạch bạch bay trong gió. Vài ba chú lính Việt Cộng lục lọi những máy móc liên lạc truyền tin, chốc chốc lại rú lên cười như vừa khám phá ra một điều gì mới lạ. Trên lô cốt, mấy tên Việt Cộng cũng bò lên ngồi gác. Nhìn ra cái ao trước mặt đơn vị, tôi bắt gặp một gã bộ đội đang ngồi vo gạo, tôi bước tới nói với anh ta:

- Nước ao này dơ lắm, cầu tiêu đàng kia kìa, không dùng nấu ăn được đâu.

Không những không nghe lời tôi khuyên, anh còn vênh mặt lên lớp:

- Các anh Tiểu tư sản quen rồi, nước nào mà lại dùng không được!

Nói xong, anh tiếp tục công việc đang làm dở dang. Nhìn qua cử chỉ, nghe giọng anh nói, tôi nhận ra rằng: Lời nói của người Quốc Gia cho dù có thực tâm, có ý xây dựng, kể từ giờ phút này hoàn toàn vô giá trị trước người Cộng Sản. Tôi lẳng lặng dắt xe ra cổng. Quay lại nhìn đơn vị lần cuối, tám dãy nhà tôn mờ đi, tôi phải gỡ kính xuống lau mắt để nhìn cho rõ.

Lái xe về nhà tôi quên hẳn mình đang mặc trên người bộ quân phục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giữa lòng thành phố đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng Sản.

Thường ngày, khi xe về đến đầu con hẻm rẽ vào nhà, tôi hay gặp bé Tâm bốn tuổi, con anh chị Hảo, đứng chơi trước hiên nhà. Bé thường ngừng chơi vỗ tay reo mừng đón tôi:

- Trung úy đi làm về, Trung úy đi làm về...

Hôm nay, em chỉ mới kịp reo lên:

- Trung úy...

Thì chị Hảo chạy vội ra, lấy tay bịt ngay miệng con lôi vào nhà. Người mẹ ngước mắt lên nhìn tôi nửa ái ngại, nửa xót thương rồi chị cúi xuống dặn con:

- Từ đây về sau con kêu bằng chú, đừng gọi Trung úy nữa nghe chưa. Coi chừng Giải Phóng họ bắt đó.

Ðứa bé ngạc nhiên, lấm lét hết nhìn mẹ đến nhìn tôi. Chị Hảo quay sang tôi lý nhí phân trần:

- Phải vậy hông Trung úy... à quên chú Hưởng.

Nghe giọng lập lờ làm tôi thấy thương cho cái chân chất của chị quá chừng. Tôi nhìn cháu bé, quay sang chị Hảo gật đầu, rồ máy cho xe chạy. Vợ tôi ra đứng chờ trước hàng hiên. Vào bên trong, tôi thả mình xuống chiếc ghế nơi phòng khách, cởi đôi giày máp, cởi bộ quân phục trây di. Ðồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 5 giờ chiều ngày 1-5-1975. Tôi nhẩm tính lại thời gian, giờ này đúng là giờ thứ 41, giờ cuối cùng của ngày “Ba Mươi Tháng Tư Ðen” trong tôi.

 

No comments:

Post a Comment