Tuesday, August 2, 2011

HOA PHƯỢNG

Hoàng Long Hải


          Hoa phượng nở về mùa hè. Khi ve kêu thì cũng là lúc hoa phượng nở nên hai thứ nầy, ve và hoa phượng là biểu tượng của mùa hè. Cũng vì đặc tính đó, hoa phượng và ve sầu rất gần gủi với học sinh. Khi ve bắt đầu kêu và hoa phượng chớm nở trên cành là lúc bọn học trò chuẩn bị cho các kỳ thi và nghỉ hè.
            Hồi trước, nền giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng Pháp nên mỗi năm có rất nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi trung học đệ nhất cấp, tú tài 1, tú tài 2. Ngoại trừ thi tiểu học, các kỳ thi khác được tổ chức hai lần trong một năm: đầu hè, cuối hè, nên học trò rất bận rộn. Khi nghe ve kêu, khi thấy hoa phượng nở là thấy lòng xao xuyến lẫn lo âu: Xao xuyến vì nghỉ hè, xa trường, xa thầy cô, xa bạn bè, lo âu vì thi cử đã gần kề.
            Những nỗi xao xuyến và lo âu ấy, dĩ nhiên, được thể hiện trong văn chương học trò; không những ở học trò mà ngay cả trong lòng những người đã bỏ trường học và bạn bè lại sau lưng.
            Ở Huế, như tôi viết trong bài ve sầu, ve đã nhiều mà hoa phượng thì cũng không ít.
            Nếu có một ngày hè nào đó, dĩ nhiên vào mùa hè, đi ngang cầu Trường Tiền, nhìn ngược lên phía Tây, hướng chùa Linh Mụ, cồn Giã Viên, người ta bỗng thấy hoa phượng nở đỏ cả hai bờ sông Hương, bên phía Thương Bạc hay bên phía bệnh viện Huế cũng vậy.
            Dọc theo hai bờ sông, từ thời Tây còn đô hộ, Tây đã cho trồng hai hàng phượng. Cây phượng cao, cành lớn. Hoa phượng nở, trước khi phượng ra lá. Lá chỉ mọc đầy sau khi hoa phượng đã kết trái. Hoa phương đỏ như màu lửa, rực rỡ cả hai bờ sông, làm cho người ta phải chú ý, trầm trồ khen ngợi vì cái vẻ đẹp rực rỡ của nó. Hoa phượng đỏ như lửa nên người Pháp gọi phượng là  flamboyant. Trong tiếng Pháp, flamboyant cũng có nghĩa là sáng chói, sáng rực, sáng ngời, sáng quắc, lòe loẹt, rực rỡ. Tất cả các định nghĩa ở trên cũng có nghĩa là màu sắc của hoa phượng.
            Kể ra, tạo hóa không những vừa nhiệm mầu mà lại còn nhân đạo. Giả tỉ màu trời, màu nước sông không xanh mà đỏ chói, cây lá không xanh mà toàn màu lửa thì chói mắt ngươi biết bao nhiêu! Màu xanh là màu dịu, làm cho mắt người ta dịu lại, thoải mái khi nhìn trời, nhìn sông, nhìn cây, lá. Tuy vậy, trong màu xanh mênh mông của nước, của trời, của cây lá, bỗng hiện lên hai hàng phượng đỏ, nổi bật trên nền xanh. Sự tương phản của màu, giữa xanh và đỏ làm cho người ta chú ý, thích thú. Cái đẹp của phượng là ở màu đỏ và cũng ở chính sự tương phản của màu sắc vậy.

            Thành phố Huế có hai khu vực: Khu thành cổ ở tả ngạn tức là khu hoàng thành, với đại nội, chợ Đông Ba, phố Gia Hội, gồm cả Ngự Viên cũ. Khu phố mới, tức là phố Tây, - theo cách gọi hồi xưa - tức hữu ngạn, gồm Morin, bệnh viện Huế, các trường học, Ga Huế, Nam Giao, Bến Ngự, cung An Định, An cựu, v.v… Phú Cam, hay tên trên giấy tờ là làng Phước Quả, không thuộc địa giới thành phố Huế mà thuộc quận Hương Thủy.
            Dĩ nhiên - tại sao gọi là dĩ nhiên, tôi sẽ phân giải ở phần sau -, khu phố mới, ngoài những cây đoác, - cây cọ Tây - người ta trồng phượng hai bên đường, nhất là con đường bờ sông, tức là đường Lê Lợi, từ đầu cầu Trường Tiền lên tới Ga Huế.
Hai bên bờ sông Hương có nhiều vườn hoa: Từ chân cầu Trường Tiền lên tới Thương Bạc, Phú Văn Lâu hay cả Vườn Ương Cây trước của Nhà Đồ (Sau nầy gọi là cửa Sập vì cửa Nhà Đồ bị sâp trong trận lụt lớn năm 1953 -) là những vườn hoa. Bên kia sông, từ Câu Lạc Bộ Thể Dục Thể Thao trở lên cho đến sân bóng tròn Trường Quốc Học, kế Đài Kỷ Niệm cũng là những vườn hoa. Bên nầy cũng như bên kia, cuối vườn hoa, sát bờ sông là một hàng cây phương dài. Khi hoa phượng nở, không những ở hai hàng hai bên đường mà còn sát bờ sông là hàng phượng thứ ba hoa nở rộ thành ra nhìn thấy một màu hoa lửa, rực rỡ cả một khung trời.
            Trong thành nội, ngày trước, phần nhiều người ta trồng nhãn hay mù u. Tuy nhiên, cũng có vài đọan đường, như con đường đi ngang cửa Ngọ Môn, song song với đường Cột Cờ, không trồng mù u hay nhãn mà lại trồng phượng.
            Cũng dĩ nhiên, trong hầu hết sân các trường học, đều trồng phượng; - ngoại trừ Quốc Tử Giám, sau nầy là trường Hàm Nghi (trước 1975). Các trường học nầy được dựng nên sau khi Tây đã đô hộ nước ta rồi.
            Hình ảnh hoa phượng nở đỏ hai bên bờ sông, trong sân trường, v.v… làm cho người Huế, học trò Huế và cả những người đến Huế vì một lý do nào đó, trong dịp hè, không thể không có những ý tưởng, xúc cảm, viết vài câu thơ về hoa phượng.
Anh “học trò Duy Khánh”, có lẽ cũng đã “trồng cây si” một hoa khôi học trò nào đó nên than vãn rằng 3 tháng hè dài như một thế kỷ: “Rồi chiều nay Hè trở lại đây. Phượng thắm rơi Phượng thắm rơi đầy, Lại cách xa nhau chín mươi ngày. Hay là một thế kỷ dài.”

           Trần Trung Đạo cũng vậy, nhà thơ viết:

Ta, học trò dù chẳng phải ra thi
Và em, đẹp như vầng trăng quê cũ
Chiều sông Hương, đêm Nam Giao không ngủ
Một gả làm thơ, nhút nhát, si tình

Huế u trầm và khó hiểu như em
Huế nhẫn nhục trong trăm ngàn nỗi khổ
Ta ghé Huế mỗi mùa hè phượng nở
Để nghe tình vương vấn buổi về thăm

                                                 (Một Chút Tình Cho Huế)
           
Trần Trung Đạo cố phủ nhận việc ông đến Huế không phải để đi thi, vì dân Quảng Nam đến Huế để đi thi thường bị chê:
           
                                    Học trò trong Quảng ra thi
                                Thấy cô gái Huế chân đi không rời.

            Tuy nói vậy, Trần Trung Đạo cũng không thể thoát khỏi lưới tình khi nhà thơ viết: “Và em, đẹp như vầng trăng quê cũ” để cho ông có những đêm không ngủ vì… si tình.
            Trần Trung Đạo là lớp sau. Lớp trước, mà cũng là người “cõi trên”, như Bùi Giáng, cũng không ra ngoài hình ảnh hoa phượng và tình yêu, cũng không thoát khỏi vòng tục lụy:

Rập rờn đầu liễu xanh buông
Mùa trăng nước đẩy xô buồn đi xa
Trang hồng kim rải ra hoa
Trổ bông mùa phượng cũ đà hồ phai
Tơi bời ngọc trắng măng mai
Khuynh thành sắc nọ đưa vai nghiêng về.
                                         (Mùa Phượng Cũ – Bùi Giáng)

            Có lẽ cũng thấy cảnh sắc như tôi nói ở trên nên Bảo Cường viết trong bài thơ Nhớ Mùa Phượng Cũ:

Ta nhớ mùa hoa phượng
Màu hoa đỏ thắm đường
Hàng cây buồn lặng sóng
Sóng sánh bờ sông Hương
Thành quách sao ngủ vùi?
Phố cũ nhớ khôn nguôi
Người đi mờ năm tháng
Một cánh chim cuối trời.

            Cũng một “tình cảnh” như thế, có anh “thi sĩ học trò” viết:

Hoa phượng cười trong nắng hạ
Tuổi học trò tấc dạ bâng khuâng
Ngày qua ta tiếc mùa xuân
Hạ về chia rẽ tình thân tuổi ngà
(Hoa Sơn)

Hoài Châu, cũng không khác mấy với “bọn học trò”, đi thơ thẩn dưới nắng hè, để nhớ một khung trời, nhớ tiếng ve kêu và nhớ những cành hoa phượng

Tôi đi thơ thẩn dưới nắng hè,
Bỗng dưng nghe nhớ Phượng sắt se,
Ngày ấy một khung trời kỷ niệm,
Quê hương buồn rộn rã tiếng ve.

Tôi nhớ khi xưa ở quê nhà,
Cách trường tôi học chẳng bao xa,
Có cây Phượng vỹ còn xanh lá,
Một buổi hè về chớm nở hoa.

Thằng tôi ngày hai buổi đi về,
Hay dừng chân ngắm Phượng si mê,
Để có nhiều đêm tôi mơ thấy,
Phượng cười xao xuyến cả giấc mê.



          Những ý tưởng về phượng của Trần Trung Đạo, Bảo Cường và Hoài Châu cũng tương tự như Luân Hoán tróng bài thơ “Trong Sân Trường Bữa Ấy”. Tuy nhiên ở đây không phải là hoa phượng mà lai là gốc phượng. Mùa đông, hoa phượng đã tàn nhưng má thì vẫn hồng như hoa phượng. Tác giả nầy viết:

em có nhớ trong sân trường bữa ấy
giờ ra chơi em phơi nắng chiều đông
gió bấc khô làm đôi má se hồng
cùng chúng bạn em ngồi quanh gốc phượng
                                                                 (Luân Hoán)  

         Ông “học trò già Kiên Giang” có khác đi chăng?! Không hẵn, khi tác giả mơ một mái tóc thề, không thể không nhớ màu hoa phượng:

Cuối tháng, thầy vô trường võ bị
Xa trời Đồng Khánh, học trò yêu
Xa rời Bến Ngự sông An Cựu
Nắng đục, mưa trong lắng tiếng chiều

Thầy sắp đi xa trò ở lại
Mùa hoa phượng cũ úa phai rồi
Cổng trường bỗng biến thành ga nhỏ
Trò tiễn thầy đi, ai ngậm ngùi
                                                     (Tóc Thề Xứ Huế)

            Ve sầu, phượng đỏ, ly biệt là tâm tư của học trò nam nữ khi “Hè về, hè về, tiếng ca nhịp phách lên khơi” như trong bài hát của Hùng Lân.
Trong ba mươi năm chinh chiến, nỗi ly biệt của thầy trò thắm thiết hơn, đau đớn hơn, đậm mùi… thuốc súng hơn và không thiếu vĩnh biệt: Thầy đi không về, và cũng lắm khi trò đi cũng không về. Ai cũng thấy, cũng biết và chấp nhận “Quốc gia hưng vong…”

Huế của các o, có nhiều phượng, hoa phượng nở vào mùa hạ. Điều đó được thể hiện qua thơ của Tiều Phu:

Huế của O . Phượng đỏ hồng lửa Hạ
Hương Giang cươì . vụn vỡ nhịp chèo khua nắng
chờ O . vương vãi chuổi hạt ngà
rụng lốm đốm . hoa vàng nền cỏ lụa...
(Tiều phu)


Tôi Tìm Huế

tôi ở đâu rơi về gốc Huế
mười năm có lẽ buồn vui
một vợ hai con có bia hộ khẩu
có một làng quê mong ngóng phía mặt trời

mà sao tôi chẳng là tôi
khi hèn mọn đánh rơi mình vào quên lãng
tôi tìm tôi lang thang
đêm nào lả chả trăng như nước mắt
trầm ngâm tôi với Ngự Bình
trước mộ đứa con trai thiếu tháng
cháu là người ngoài cuộc đời
chỉ được nhìn Huế năm ngày qua lồng kính

tôi tìm tôi khuya khoắt
lập lòe lửa nhang góc phượng sương mờ
nhấp nháy hoài như mắt cây mắt gió
bên những người xe thồ xích lô gác chân lên trời nằm đợi khách
khẽ hát về "Đêm Tàn Bến Ngự"...
vâng cho đến khi tàn đêm tôi mới gặp được lời của phố
nỉ non vệ cỏ bên đường
tôi tìm tôi lửa đốt
chiều nào mỏi rời chân đứng chờ vợ đẻ
cửa hạnh phúc đầy tiếng rên la
bắt chước ai tôi cắm nén nhang bên gốc xà cừ
Ngô Minh
           
            Ngô Minh tự nhân không phải là người Huế, nhưng do đời đưa đẩy về đây, sau 1975? Ở đó, kẻ ly hương đi lang thang, lã chã trăng với nước mắt, trầm ngâm với Ngự Bình, hát khẽ với “Đêm Tàn Bến Ngự” và tìm tới những gốc phượng, lập lòe với ngọn lửa nhang (hương) trên tay. Ông đi thắp nhang cho những ngôi mộ nhỏ, nơi chôn những bào thai sinh thiếu tháng. Ông quả có nhận xét tinh tế. Huế không thiếu những “nghĩa trang” nhỏ như thế ở vườn hoa cây đoác bên hông bệnh viện Huế. Hay có khi gọi là “mả ông trạng” ở đường Trung Bộ.  Huế, sau 1975, không thiếu những gian khổ, đói khát và đau buồn.

            Tế Hanh nhìn hoa phượng theo một nhãn quan đặc biệt và kỳ lạ hơn:

Lưu ly chất ngọc đọng màu bông
Cành rực hừng theo trận gió nồng
Ơi phượng! ngươi là cây đuốc sáng
Đất đầy tin tưởng vọng lên không.

Đốt cháy bao la sáng mặt trời,
Linh hồn mùa hạ hiện thân ơi!
Đời người kết tụ bao nhiêu nắng?
Trưa chói chang cao, lửa rạng ngời

Phung phí tình yêu quá mức thường
Sống thời hoàng tử, chết quân vương
Nguy nga cây nở bừng son thắm
Lộng lẫy hoa rơi sắc ngợp đường.

Ta đứng trên cao gió lộng bày
Ngọn đèn tâm tưởng đảo điên lay
Cầu ngươi hỡi Phượng tươi như máu
Dâng sáng linh hồn cánh dợn bay.

                               (Phượng - Tế Hanh)
                                                      1944
           
            Ông gọi phượng là ngọc lưu ly, là lửa, là tươi như màu máu, là cây đuốc sáng, là niềm tin tưởng, là ánh sáng mặt trời, là linh hồn mùa hạ, là nắng hạ kết tinh, là lộng lẫy màu son thắm. Ông yêu phượng và dâng cả linh hồn cho cánh phượng muốn bay. Chỗ nầy cần đặt một dấu hỏi: Có phải nhà thơ yêu một người có màu má đỏ như phượng, hay yêu một người tên phượng. Câu trả lời sẽ có sau!
Hình như Xuân Diệu có một mối tình nào đó với phượng. Mối tình của một người rời xa sân trường đã mười năm hay với một người tên phượng cũng đã mười năm. Dĩ nhiên, với tình đó, ông ca ngợi màu hoa phượng “hồng trên một cõi”, như muôn tiếng đàn cùng gảy, trong ánh sáng vòi vọi của không gian. Dù mùa hè đang vui, màu sắc hoa phượng rực rỡ, dưới con mắt Xuân Diệu, vẫn có một chút buồn nào đó trong khoảng cách thời gian “mười năm”, cùng với nỗi nhớ “mười năm” và “hiu hắt gió mười năm”.

Phượng trong sáng nảy hồng trên một cõi
Như muôn đàn cùng gảy dưới máy cao
Ánh sáng trùm trong không gian vòi vọi
Tấc lòng hè kiều diễm hoá li tao

Biển bướm đỏ rào rào trong gió mát
Lá non xanh như suối chảy trên trời
Phượng, phượng hỡi, cớ sao mà man mác
Mỗi mùa hè run rẩy dưới triều môi

Xanh đã ngủ ở dưới trời yên tĩnh;
Đỏ còn ngân trong tiếng nói dịu dàng;
Ta mơ màng thấy gió đang sóng sánh,
Trống sân trường văng vẳng đánh - mười năm.

Mười năm phượng, phượng huy hoàng vẫn phượng
Áo trắng trong ngày tháng phất phơ soi
Ta cùng mình như cành cây riết quấn
Vương lòng nhau ràng rịt biết bao đời

Phượng mười năm.... hiu hắt gió mười năm
Yêu mười năm.... nhớ muôn thuở.... mười năm

                 (Phượng Mười Năm - Xuân Diệu)

            Không riêng gì Huế mới có nhiều phượng. Nhiều thành phố khác ở Việt Nam, kể từ sau khi Tây cai trị, có trồng nhiều phượng. Hải Phòng được mệnh danh là “Thành phố hoa phượng đỏ” và Hà Nội thì, như Tạ Tỵ bày tỏ nỗi nhớ trong bài “Thương về năm cửa ô xưa”:
                       
Cầu Giấy đường hoa phượng vỹ
Nhớ thương biết mấy cho vừa

            Phượng là tên hoa mà cũng là tên người. Người ta yêu hoa phượng và cũng yêu người tên phượng, gọi phượng là “Phượng yêu” như tên một bài hát của Phạm Duy. Tác giả Hoàng Thụy thì cho rằng “Tên em chói chang” như màu hoa phượng?

Em là hoa phượng
Sao em chỉ nở
Một lần năm xưa ?
Cánh hồng tuổi thơ
Nhuộm anh nỗi nhớ
Sắc hè chói chang...

Hoa phượng vẫn nở
Mỗi bận hè sang
Mùa sau mùa trước
Sắc hè chói chang...

Nhưng người đâu thấy?
Sắc hoa đang cháy
Trên bầu trời xanh!

Hương Xuân cũng cùng một tâm trạng, nhưng phượng của Hương Xuân là phượng của Saigon:

Sài Gòn đó với chùm hoa phượng
Thật lâu rồi mà sao vẫn chưa quên
Để trong em còn mãi những muộn phiền
Ngày tháng cũ, hồn nhiên tà áo trắng
                                       (Chùm Phượng Vĩ)

            Dĩ nhiên, một nhà thơ được người đời mệnh danh là thi bá, thơ ông cũng không thể vắng bóng phượng, nhưng phượng của ông là “Phượng nở đêm nào cặp má khanh.” (Thu có nguyệt)
            Du Tử Lê cũng một thời đi “theo trời hoa phượng xưa” và rồi “mộng vữa”. Lê Du Tử trách mình hay trách người cho sự tan vỡ ấy?
người đã vì ta tan ước mơ
phấn son chưa ngát thịt da ngà
môi non đã lỡ tình đau đớn
mộng vữa theo trời hoa phượng xưa

                                Tình Sầu Du Tử Lê

            Người ta nói tới hoa phượng là để nói tới mùa hè. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông lại chờ tới mùa thu, khi hoa phương không còn thì than vãn cùng thu rằng nhớ màu hoa phượng quá, nhớ tới phượng rơi trên tóc, sắc đỏ hoa phượng như màu đỏ của pháo của một buổi chiều nào đó, tiễn em ra đi!

Hoa phượng rơi đón mùa thu tới
Màu lưu luyến nhớ quá thu ơi
Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi
Sắc tươi màu pháo vui
tiễn em chiều năm ấy               
                                            Nguyễn văn Đông

            Người ta nói tới hoa phượng, Nhã Ca khác hơn, khác ở chỗ nói tới trái phượng hơn là hoa. Hoa phượng không ăn được, trái phượng có hột, hột phượng ăn thì… ngon

Quả phượng vừa khô trên nhánh cao
Cây vưà hiu quạnh cổng trường sâu
Tôi về ngó lại thời con gái
Thành phố già nua những gốc sầu
           
            Cũng không hẵn Nhã Ca ưa ăn hột phượng. Nhã Ca tìm thấy những trái phượng khô trên cành cao, như những khô héo trong cuộc đời của một đời con gái, tìm lại những khô héo ấy, trong cổng trường sâu - Cụ thể là trường Đồng Khánh, một thời Nhã Ca làm học trò ở đó. Có lẽ vậy -  Một ngôi trường cổ, trong một thành phố già nua.
            Trái với các nhà thơ khác, phượng trong thơ Nhã Ca man mác những nỗi buồn của đời, của một thời, không oán trách ai, hờn giận ai như trong thơ Du Tử Lê.

            Vậy là các nhà thơ đã nói hết những gì về hoa phượng. tôi còn chi để nói. Tôi bèn tìm trong tự điển, xem thử sách có nói gì về loài hoa nầy, cây nầy chăng.

            Tự điển “Wikipedia toàn thư” giải thích cây phượng như sau:

“Nguồn gốc, đặc điểm
“Phượng vĩ được miêu tả như là loài cây nhiều màu sắc nhất trên thế giới. Các bông hoa màu đỏ/da cam rực rỡ của nó cũng như các lá màu xanh lục sáng làm cho nó rất dễ nhận thấy.
“Phượng có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 5 m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 12 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày dặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô hạn, nhưng ở những khu vực khác thì nó là loài cây thường xanh.
“Những quầy bán hàng dưới gốc phượng vĩ bên ngoài nhà thờ Santo Domingo, Oaxaca, Mexico
“Các hoa của phượng vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ-da cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng. Thứ flavida nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ hai ngón tay út, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30-50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.

“Khu vực trồng
“Phượng vĩ được trồng khá phổ biến tại khu vực Caribe.
Tại Hoa Kỳ, nó được trồng ở khu vực Florida, thung lũng Rio Grande ở miền nam Texas, các sa mạc ở Arizona (đến tận Tucson) và California, Hawaii, Puerto Rico, quần đảo VirginGuam. Nó là loài cây biểu tượng chính thức của quần đảo Bắc Mariana
Phượng vĩ được coi là đã thích nghi với thủy thổ ở nhiều khu vực mà người ta trồng nó, và bị coi là loài xâm hại tại Australia, một phần là do các bóng râm cũng như bộ rễ của nó đã ngăn cản sự phát triển của nhiều loài thực vật bản địa mọc dưới tán lá của nó. Nó cũng được tìm thấy tại Ấn Độ, tại đây người ta gọi nó là gulmohar, hay tại Việt Nam.
“Quả phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi shak-shak hay maraca.
“Cây phượng vĩ tại Blakiston St, Harare, Zimbabwe, 1975

“Mùa nở hoa
“Phượng nở hoa từ khoảng tháng 4 đến tháng 6, tùy theo khu vực.

“Ý nghiã tên
“Tên “phượng vĩ” là chữ ghép Hán Việt – “Phượng Vỹ” có nghĩa là đuôi của con chim phượng. Đây có thể là một hình thức đặt tên gọi theo cảm xúc vì các lá phượng vỹ nhất là các lá non trông giống như hình vẽ đuôi của loài chim phượng.

“Biểu tượng
“Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi “hoa học trò”. Thành phố Hải Phòng là khu vực trồng rất nhiều phượng , vì thế thành phố này còn được gọi một cách văn chương là “thành phố Hoa Phượng Đỏ”. Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng .”

Thật ra, theo tôi biết, có hai loại hoa phượng khác nhau chút ít: Một thứ, như trình bày ở trên, thường gọi nôm là phượng. Phượng là tên thường thấy trong văn chương. Tên phượng tây cũng vậy. Thật ra, thông thường, người ta hiểu đây là phượng ta, đối nghịch với cách gọi trong phần giải thích nói trên. Phượng tây là tiếng dùng để gọi một loại phượng khác, loại nầy cao chỉ mới quá đầu người. Chỉ cần đứng trên ghế là người lớn tuổi có thể hái được những chùm hoa trên ngọn cây. Đây cũng là loài cây mộc, nhưng cành và thân nhỏ, bông cũng mọc chùm, hình dáng như bông lau, cánh hoa màu đỏ, viền vàng. Những bông hoa phía trong thì đã nở trong khi những bông hoa đầu ngọn còn búp. Loại phượng nầy thường được trồng trong sân các đình, chùa, miếu, vũ để lấy hoa chưng trên bàn thờ; có khi cũng được trồng trong công viên. Trước 1945, khi tôi còn nhỏ, tôi đã theo người anh cả, qua “Nhà Giây Thép” xin ít cánh hoa về để bố tôi chưng trên bàn thờ.
Đây cũng là loại hoa thường được gọi là “bông cúng” - cúng bái. Tuy nhiên, loại nầy không phổ biến như hoa phượng.
Trong một cuốn sách của ông Nguyễn Tường Bách, người gốc Huế, cũng cho biết rằng loài phượng gốc gác từ Madagascar. Pháp đô hộ Madagascar trước, sau đó tới các nước Đông Dương.
Khi người Pháp bắt đầu xây dựng những thành phố mới ở Việt Nam hay chỉnh trang, phát triển những thành phố đã có từ trước khi họ đến Việt Nam, có lẽ họ đã cho nhập giống phượng từ Madagascar qua Việt Nam để trồng và làm đẹp các đường phố, các trường học, công sở, công viên ,v.v…
Thành phố Huế chẳng hạn. Ở khu phố Tây là phố mới, có nghĩa là được xây dựng sau khi Tây đã đô hộ, thì hầu hết các đường phố ở khu vực nầy được trồng phượng hai bên đường, bên bờ sông, bên cạnh những cây đoác hay cây chuối Tây cũng là loại cây được “nhập cảng.”
Ở khu phố cổ, - tả ngạn - phượngg chỉ được trồng bên bờ sông, hoặc vài ba cây còn nhỏ trên đường ngang cửa Ngô Môn - song song với đường Cột Cờ, đoạn gần cửa Ngăn. Có lẽ đây là một sự “lạc giống” được sở Công Chánh trồng “bổ sung” khi một số cây cũ đã chết.
Trong thành nội Huế, dọc theo đường Hộ Thành - nay là đường Đinh Bộ Lĩnh -, khu vực cửa Hiển Nhơn, hầu hết trồng nhãn - nhãn lồng - đường Tam Tòa trồng mù u.
Loại cây trồng ở Huế, trước khi Tây cai trị phần nhiều là thông, bàng và mù u. Người Huế có câu ca dao:

            Văn Thánh trồng thông
            Võ Thánh trồng bàng
            Ngó lên Xã Tắc hai hàng mù u.

Năm tôi học Đệ Tam với ông VĐH, môn Văn Chương Bình Dân, có đứa trong bọn chúng tôi thóc mách hỏi thầy tại sao Văn Thánh trồng thông mà không trồng bàng, Xã Tắc lại trồng mù u? Ông thầy tôi không trả lời!
Năm Đệ Nhị, học về Nguyễn Công Trứ, tôi nhớ đã học bài thơ sau đây của Nguyễn Công Trứ từ năm Đệ Tứ:
           
            Kiếp sau xin chớ làm người,
            Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
            Giữa trời vách đá cheo leo
            Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Cụ Võ Liêm Sơn, một nhà cách mạng, “đồng chí” với cụ Phan Bội Châu, sau nhiều năm bị đày ra Côn Đảo, được tha về, dạy học ở trường Khải Định, có bài thơ “Ngắm Non Hồng”, có mấy câu kết như sau:

            Vẫn cứ đinh ninh lời nguyện ước:
            Bên mồ có mọc một cây thông
            Để cho xương thịt máu vung trồng
            Theo gió reo lên một khúc nhạc
            Kêu vang chín chín ngọn non Hồng.

Tôi không bàn về sự khác biệt tư tưởng giữa hai tác giả nầy: Một bi quan và một lạc quan, dù là ở “kiếp sau”, người đọc thấy rằng:
Cây thông tượng trưng cho người quân tử vì thân thẳng và cao, như người quân tử chẳng bao giờ chịu oằn lưng vì danh lợi. Tấm lòng quân tử bao giờ cũng xanh, không đổi màu, không thay lòng.
Tư tưởng đó gần gủi với văn hóa nên có phải vì vậy mà thông được trồng ở Văn Thánh, nơi thờ Khổng Tử và thất thập nhị hiền.
Võ Thánh trồng bàng?
Cây bàng gỗ cứng, chịu đựng được sức nặng, lại có tàng rộng, che nắng cho người. Có phải đó là tính chất của các võ tướng.
Xã Tắc trồng mù u?
(Xin độc giả xem bài sau: Hoa Mù u)
Về chữ phượng, “Bách Khoa Toàn Thư” còn giải thích thêm:
Chòm sao Phượng Hoàng, (tiếng La Tinh: Phoenix) là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh chim phượng hoàng.
“Đèo Phượng Hoàng
“Đèo Phượng Hoàng là con đèo nằm trên quốc lộ 26 đoạn giáp ranh giữa tỉnh Đăk Lăk với Khánh Hòa.
Phượng, hay Phượng hoàng, Phụng, là một trong 4 tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các nước Á Đông khác. Phượng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công... Các bộ phận của phượng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánhgió, đuôi là tinh tú, lôngcây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phượng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ. Vì thế phượng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phượng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu và người đàn bà đẹp.”

Trước khi có cây phượng, hoa phượng, nghĩa là trước khi Tây thực dân đem cây “phượng thực dân” từ Madagascar (Tội nghiệp cho cây phượng bị mang tiếng oan khi dính chùm với thực dân) thì ở nước ta chỉ có chim phượng, hay còn gọi là chim phượng hoàng. Chim trống gọi là hoàng, chim mái gọi là phượng. Gọi chung là phượng hoàng.
Người Tàu có câu:

            Phượng hề, phượng hề qui cố hương
            Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng.

Con chim phượng trở về quê cũ (hề chỉ là tiếng đệm trong thơ cổ), sau khi ngao du khắp bốn biển để tìm con chim hoàng. Do ý nghĩa đó mà có bản đàn “Phượng cầu kỳ hoàng.”
Trong truyện Kiều, ở đoạn Kiều gảy đàn cho Kim Trọng nghe (Bản đàn thứ nhứt), cùng một ý như trên, Nguyễn Du viết:

            “Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,
        Nghe ra như oán như sầu phải chăng!

Đời nhà Hán bên Tàu, có ông Tư Mã Tương Như gảy khúc “Phượng cầu kỳ hoàng” để ve vản người đẹp Trác Văn Quân. Nghe riết thành mê, Trác Văn Quân bỏ nhà, trốn theo Tư Mã. Ai bảo người xưa không lãng mạn và đa tình và không… quậy!!!???
Như thế, trước khi có “phượng thực dân”, nếu người Việt có ai tên phượng thì tên đó có nghĩa là con chim phượng. Từ khi Tây đem phượng qua trồng ở xứ ta, thì tên phượng có hai nghĩa: Một là con chim phượng, hai là hoa phượng. Nếu cô nào, bà nào có tên kép thì có thể là Kim Phượng, Túy Phượng, Bích Phượng, Ngọc Phượng, Hoàng phượng, Lạc Phượng. Bàng Thống trong truyện Tam Quốc, hiệu là Phượng Sồ, khi đi đánh giặc qua đồi Lạc Phượng thì tự biết mình tới lúc tiêu vong.
Người bây giờ đặt tên lung tung, chẳng có ý nghĩa gì cả, miễn nghe cho kêu,  cho “rổn rảng” là được. Người xưa không thế. Tên chính hay tên đệm đều ý nghĩa phân minh. Ví dụ: Kim Phượng có hai nghĩa: Một là con chim phượng nhỏ (như kim cúc là loài hoa cúc nhỏ) họặc con phượng bằng vàng (Kim: vàng. Kim hoàn là tiệm vàng). Một tên nữa là Túy Phượng. Chữ túy có hai nghĩa: Túy là thuần một chất, như chữ thuần túy chẳng hạn. Hoặc túy là say rượu, như trong câu thơ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu” (Say rượu nằm ngủ ngoài sa trường, xin chàng đừng cười) hoặc trong câu đối của Nguyễn Công Trứ: “Sáng một một rượu say túy lúy, đưa tay bồng ông phúc vào nhà). Túy Phượng là thuần một chất và say đắm phượng. Vậy là yêu lắm đấy!!!! Thúy Phượng thì trật lất: Chim Thúy không ở với chim phượng được. Thúy là loài chim nhỏ, phượng là loài chim lớn, mỏ quắp, như diều hâu, ăn thịt. Thúy ở với phượng, phượng sẽ ăn thịt thúy. Ai đặt tên Thúy Phượng là sai! Ngọc Phượng là con phượng chim phượng bằng ngọc, cũng tương tự như bích phượng vậy. Bích là tên một loại ngọc. Bích cũng có nghĩa là bức tường. Bích phượng là phượng nở đỏ cả một ven sông như bức tường đỏ, như bức tường lửa, như trận Xích Bích trong Tam Quốc, Tôn Quyền đốt cháy thuyền của Tào Tháo trên sông Trường Giang cháy đỏ rực như một bức tường lửa vậy. Xích Bích dịch theo tiếng Anh là Fire wall, là bức tường lửa ngăn chận người Việt trong ngoài nước e-mail cho nhau. Tôi nói như vậy chắc đúng đấy. Quí vị nào còn nghi ngờ xin hỏi lại thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chắc ăn hơn.
Trong bài thơ Nhã Ca, bà ta có nói tới trái phượng, nhưng không thấy nói tới việc ăn trái phượng.
Trái phượng hình giống con dao chặt cây, dẹp và dài cở ba, bốn tấc tây. Khi trái phượng đã có hột, bọn trẻ chúng tôi thường hái xuống, đập dập hai cạnh cho dễ lột thành hai mảnh, lấy hột ăn. Hột mầm hơi ngọt, hai lá mầm lạt hơn. Trái phượng khi đã già thì đen. Khi có bão, vài cành phượng gãy xuống, người ta có thể hái trái về nấu lấy hột ăn vì lúc nầy hột đã già và cứng.
Gỗ phượng thuộc loại dỗm, không đóng bàn ghế hay dụng cụ được, chỉ để đun bếp mà thôi. Gỗ nầy không có than, nếu có thì cháy cũng không bền.
Nói chung, không ai trồng phượng để lấy gỗ, chỉ là để có bóng mát và có bông đẹp khi hè tới mà thôi.   
            Tôi chưa từng thấy ở Việt Nam có phượng tím. Có lẽ tôi hơi quê chăng. Vì vậy, lần đầu tiên tới Nam Cali tôi thấy ở quận Cam có nhiều hoa phượng tím. Tôi hơi ngạc nhiên.
            Tôi không cho rằng phượng tím là đẹp mặc dù tôi vẫn thích màu tím hoa sim, hoa mua, hoa cà. Có phải tôi có định kiến hay chăng. Bởi vì cũng có không ít người khen phượng tím đẹp, hoặc nhìn phượng tím mà nhớ phượng đỏ như nhà thơ Nguyễn Nam An có mấy câu thơ tôi trích sau đây:
Phượng

Phượng ở công viên nở toàn hoa tím
Phượng xưa đỏ cành đã bỏ đi đâu
Phượng của tình tôi nhánh sầu tay hái
Phượng nay đường dài mình chẳng gặp nhau
…..

Phượng ở Mỹ châu phượng sầu hoa tím
Trống vắng lòng xe trống vắng hiên che
Tháng sáu tôi thề khi đêm ra biển
Dầu sẽ như ve hết kiếp không về

hoặc:  

Mùa Phượng Tím

Nắng Xuân ấm lung linh mời Hè đến
Gío giao mùa lay nhẹ cánh phượng yêu
Đẹp biết bao hoa tím dáng mỹ miều
Lòng rộn rã ôm chầm màu kỷ niệm

Hoàng Long Hải
Massachusetts,
một nơi không có hoa phượng!

No comments:

Post a Comment