Từ giữa thập niên 60, chiến trường miền Nam bắt đầu sôi
động, hàng hàng lớp thư sinh phải từ giã mái trường, phố thị ,"xếp bút
nghiên theo việc kiếm cung". Người lính miền Nam lúc âý được thi ca nói
tới như là những chàng tuổi trẻ hiền lành, lãng mạn, đi hành quân như vui
thú với rừng núi sông hồ, mà hành trang lúc nào cũng kèm theo thơ túi rượu
bầu và hình ảnh một người tình nho nhỏ ở hậu phương:
"..Kẻ thù ta ơi, những đứa xâm
mình
Ăn muối đá và hăng say chiến
đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân với rượu đế mang
theo
Mang trong đầu những ý nghĩ
trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách
nước.."
( NBS)
Những chàng lính 19, 20 thời ấy không phải là những
người hăng say chém giết, không hề muốn " xẻ dọc trường sơn" để "sinh bắc
tử nam", mà chỉ muốn anh em một nhà cùng sống trong hòa bình an lạc:
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát
ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
(NBS)
Cũng từ thời gian đó, xuất hiện những bản nhạc của Trần
Thiện Thanh và tiếng hát của chính anh, ca sĩ Nhật Trường. Những bài hát
viết về lính, về tình yêu của lính. Những người lính lãng mạn hào hoa, và
những cuộc tình đẹp, dễ thương như mùa thu, như hoa tím trong rừng sim,
cho dù kết cuộc chỉ còn là những "chiếc khăn sô của người cô phụ còn lóng
lánh dấu ái ân và những dòng nuớc mắt" .
Ta thử hình dung những người lính ấy trong bài "Tình
Thư của Lính" :
" Từ khi anh
thôi học, và từ khi anh khoác áo treillis
Từ khi anh xa
nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây
Ngại chăng đêm
di hành và thường khi dừng bước giữa hoang vu
Một thằng ước
ao, để một thằng khát khao, còn mình thì nằm đếm sao. . ."
Người lính thuở ấy, dù nay đây mai dó, nhưng rất đỗi
chung tình và biết chấp nhận những chia lìa mất mát. Cho dù lúc nào "
ngày
anh đi sông hồ cũng in dáng em" và vẫn biết là:
"..nếu em không
là người yêu của lính
em sẽ nhớ ai
chủ nhật trời xanh
em sẽ nhớ ai
đêm sương lạnh lùng
và giữa chốn
muôn trùng ai viết tên em lên tay súng ?"
nhưng người lính lúc nào cũng lo sợ mình sẽ mang nỗi
buồn và điều bất hạnh đến cho người tình nhỏ, nên nhiều lúc đành phải lặng
lẽ chia tay: " biết trả lời sao, khi chưa nói yêu mà đã xa rồi..".."
sẽ
không trả lời đâu, khi anh muốn em đừng vướng u sầu.."
Cho dù biết "
tôi chỉ là người lính phong trần, thấy
hoa nhớ người yêu rất xa" (Hoa Trinh Nữ), "
trong bao lần quân hành, tôi
qua vùng khô cằn mồ hôi thành biển mặn trên môi " (Biển Mặn) hay " Anh vì
lửa khói quê hương, đường hun hút biên cương, một mình ngắm trăng suông..
Từng chiều rớt bên sông em có mơ gì không ? (Chân Trời Tím)
Và cho dù người tình của lính có sẵn lòng chấp nhận
thương đau:
".. Nếu anh
không về nữa, thì em xin chiếc khăn sô
Lỡ anh không về
nữa, hàng cây đêm sẽ đứng gục đầu
Và vì sao khuya
khép mắt sầu",
(Chân Trời Tím)
nhưng người lính đa tình vẫn luôn ưu tư cho người tình
nhỏ:
"..Giờ này
thành phố chợt bùng lên
Em dòng lệ bất
giác chạy quanh
Nghĩ đến một
điều em không rõ
Nghĩ đến một
điều em sợ không dám nghĩ
Đến một người
đi giữa chiến tranh
Lại nghĩ tới
anh.. . . . ..nghĩ tới anh..
(Chiều Trên Phá
Tam Giang)
để cuối cùng đành nói một lời khuyên:
" Nếu em biết
rằng, có những người đi đấu tranh cho đời
mang lời thề
lên miền sơn khê
Từng đêm địa
đầu hun hút gió sâu
Nếu em đã gặp
mẹ già thương con khấn nguyện đêm rằm
Vợ yêu chồng
đang áo lạnh từng đông
Thì duyên tình
mình có nghĩa gì không ? "
(Tạ Từ Trong
Đêm)
Những khúc hát này ngày xưa, những người cùng thế hệ
thời ấy ai cũng có lần đã hát. Những tiếng hát đó không phải là những
tiếng kèn hung hản thúc quân vào trận mạc, nhưng chính là những làn gió
ngát hương trên từng bước quân hành của người lính chiến miền Nam. Nó
không làm át đi phần nào tiếng súng nhưng có lẽ đã làm dịu bớt đi những
vết thương, những khốn khổ, chia lìa của cả một thời ly loạn.
Tác giả những bài hát này, và cũng chính anh đã hát hay
nhất những sáng tác của anh, không còn nữa. Anh đã vĩnh viễn ra đi ngày
13.05 vừa qua ở một nơi không phải là quê hương anh. Nhưng những lời ca
khúc hát của anh vẫn còn mãi vang vọng tự quê nhà và khắp cả năm châu. Bởi
vì ở đó vẫn còn những người lính và cả những ngưòi suốt một đời yêu lính.
Cho dù, những người lính ngày xưa bây giờ đã là những nắm xương trong
những nghĩa địa hoang tàn, hoặc là những thương binh khốn khổ đâu đó ở quê
nhà, còn lại là những người lính già sống uất nghẹn ở những nơi nào đó
thật xa xăm.
"Nhạc sĩ của Lính"
là tên mà rất nhiều người miền Nam đã đặt cho anh. Bởi anh đã viết và hát
trên 200 ca khúc, không phải chỉ về đời lính, về người tình của lính, mà
còn ngợi ca người lính. Sự ngợi ca của anh không phải là những bản hùng ca
rầm rộ tiếng quân hành, nhưng nó nhè nhẹ len lỏi vào tận cùng tâm thức,
khua động những tình cảm rất thật, rất người. Nhạc của anh đã làm cho
người ta hiểu và yêu lính hơn, và làm cho chính người lính thấy yêu đời
lính của mình hơn. Những người lính với đầy đủ những bi hùng, nhưng cũng
đầy ắp những lãng mạn, vị tha và nhân bản.
Sau mùa hè 1972, đơn vị tôi từ chiến trường Kontum được
chuyển về dưỡng quân một tháng tại hậu cứ Sông Mao, Phan Thiết. Trong một
đêm văn nghệ do tỉnh Bình Thuận tổ chức ủy lạo chiến sĩ, bất ngờ có sự
tham gia của ca sĩ Nhật Trường nhân dịp anh từ Sài gòn về thăm quê (quê
anh ở Phan Thiết). Lúc ấy anh còn trẻ, đẹp trai và hoạt bát. Anh ngồi
chung bàn với tôi. Trong lúc tâm tình, khi nghe tôi nói là ngày mai sẽ về
thăm vợ ở Ninh-Hòa, anh tròn mắt nhìn tôi rồi ghé vào tai tôi nói nhỏ, có
một thời anh đã say mê một cô gái Ninh-Hòa. Sau đó anh lên sân khấu hát
tặng tôi bài Mùa Đông Của Anh, và nhờ tôi chuyển đến cô gái Ninh-Hòa nào
đó hai câu:
" ..Xưa hôn em
một lần mà đau thương tràn lấp..
Anh yêu em một
ngày rồi xa em trọn kiếp.."
Rất tiếc, cho đến khi tôi biết được cô gái Ninh- Hòa ấy,
thì thế sự đã đổi thay.
Tôi không còn muốn nói với cô những điều anh gởi gấm.
Sau hơn 20 năm, nhìn lại anh trên sân khấu hải ngoại,
tôi thấy chạnh lòng. Anh cười nhưng khuôn mặt anh khắc khổ. Nụ cười có vẻ
héo hon. Có lẽ anh đã phải bỏ sân khấu khá lâu, nên đi tới đi lui không
còn tự nhiên như ngày trước. Anh ốm hơn xưa và cằn cỗi đi nhiều. Tôi tội
nghiệp cho Anh. Không biết những đau thương nào từ cuộc đổi đời đã làm anh
đổi thay đến thế.. Hôm ấy, anh hát bài Biển Mặn, dù giọng hát không còn
được như xưa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy anh hát hay và cảm động như thế.
Rồi đến khi ca sĩ Thanh Lan bất ngờ tái ngộ. Hai người
hát lại bài Chiều Trên Phá Tam Giang. Hai mái tóc đã ngã màu. Cả hai không
còn là cô sinh viên và người lính trẻ ngày nào. Nhưng hôm đó họ đã hát với
nhau rất tuyệt vời và diễn xuất đến xuất thần. Thanh Lan đã khóc sụt sùi.
Có lẽ mọi người cũng không ngăn được dòng lệ cảm xúc.
(Dường như tôi đã đọc được ở đâu đó những dòng tương tự trên đây mà tôi có cùng chung cảm xúc.)
(Dường như tôi đã đọc được ở đâu đó những dòng tương tự trên đây mà tôi có cùng chung cảm xúc.)
Nhật Trường Trần Thiện Thanh ! Xin cám ơn Anh, và vĩnh
biệt Anh trong muôn vàn thương tiếc.



Phạm Tín
An Ninh
Vương Quốc Nauy
20 tháng 5 năm 2005
Vương Quốc Nauy
20 tháng 5 năm 2005
No comments:
Post a Comment