Ai làm chủ Cam Ranh, người ấy sẽ làm chủ Biển Đông
Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam,
vịnh Cam Ranh luôn giữ vai trò là một quân cảng quan trọng bậc nhất.
Hội tụ đầy đủ những ưu thế mang tầm chiến lược về địa lý, hàng hải cũng
như vị thế lịch sử quan trọng, Cam Ranh ngày nay luôn thu hút sự quan
tâm đặc biệt không chỉ của giới quân sự mà còn của cả các nhà đầu tư
quốc tế.
Ai làm chủ được Cam Ranh, người ấy sẽ làm chủ được Biển Đông.
Vịnh Cam Ranh nằm trên tọa độ 11 độ kinh
Đông, 12,10 độ vĩ Bắc, thuộc tỉnh Khánh Hòa, có vị trí địa – chính trị
chiến lược quan trọng trên các tuyến hàng hải quốc tế Singapore, Hồng
Công, Thượng Hải, Yokohama. Được hình thành từ hai nhánh núi bao bọc,
vịnh Cam Ranh có chiều rộng trung bình 8-10km, chiều dài ăn sâu vào đất
liền từ 12-13km, độ sâu từ 18-32m, có diện tích hơn 60 km2 và cách
đường hàng hải quốc tế khoảng 1 giờ tàu biển.
Điều kiện thủy văn, địa chất rất thuận
lợi, thủy triều trong vịnh khá đều đặn, tương đối đúng giờ. Đáy vịnh
bằng phẳng, chủ yếu là cát pha bùn khá chắc. Ngoài cửa vịnh có các đảo
và cù lao chắn gió nên vịnh lặng sóng, thuận tiện cho tàu neo đậu, tàu
có trọng tải 100.000 tấn ra vào dễ dàng.
Nhiều nhà chiến lược phương Tây đã đánh
giá Cam Ranh là một “pháo đài tự nhiên lý tưởng”, “một đồn phòng vệ của
Thái Bình Dương”. Cửa vào cảng vịnh Cam Ranh hẹp bé, khó tiến công, dễ
phòng thủ địa thế hiểm yếu, khống chế được toàn khu vực biển Đông và là
khu phòng thủ trọng yếu chiến lược trấn giữ giữa Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương. Tạp chí Hải quân Mỹ “Proceedings” số tháng 10/1991 có viết:
“Đối với hải quân Mỹ, Nga hay Trung Quốc, ai làm chủ được Cam Ranh, sẽ
làm chủ được “trò chơi mèo vờn chuột” ở vùng biển Đông Nam Á và biển
Đông”.
Từ xa xưa, các nhà quân sự đã nhận thấy
tầm quan trọng chiến lược của vịnh Cam Ranh. Tại đây hội tụ đầy đủ các
yếu tố thuận lợi để xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự lớn
trong khu vực.
Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1905, sau khi hạm đội Viễn Đông bị Nhật Bản đánh tan, các tàu của hạm đội Bantích của Nga hoàng Nicolas đệ II do Đô đốc Zinovy Rozhestvensky chỉ huy vượt qua hành trình trên 16.628 hải lý đến Viễn Đông đã ghé vào vịnh Cam Ranh ngày 12-4-1905 để sửa chữa, tiếp nhiên liệu, lương thực, nước ngọt và than suốt một tháng trước khi tham gia trận đánh tại eo biển Tsushima nằm giữa Triều Tiên và Nhật Bản.
Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1905, sau khi hạm đội Viễn Đông bị Nhật Bản đánh tan, các tàu của hạm đội Bantích của Nga hoàng Nicolas đệ II do Đô đốc Zinovy Rozhestvensky chỉ huy vượt qua hành trình trên 16.628 hải lý đến Viễn Đông đã ghé vào vịnh Cam Ranh ngày 12-4-1905 để sửa chữa, tiếp nhiên liệu, lương thực, nước ngọt và than suốt một tháng trước khi tham gia trận đánh tại eo biển Tsushima nằm giữa Triều Tiên và Nhật Bản.
Sau chiến tranh Nga – Nhật, lo sợ trước
âm mưu tranh giành thuộc địa của Nhật Bản ở Viễn Đông và Thái Bình
Dương, năm 1911, Chính phủ Pháp đã cử Đại úy hải quân Fillommeus chỉ
huy xây dựng một quân cảng ở Cam Ranh. Vào giữa năm 1939, Pháp xây dựng
Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn trong kế hoạch “Phòng thủ chung”
ở Đông Dương và xây dựng nhiều công trình quân sự khác trên bán đảo
Cam Ranh hòng đối phó với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng ngày
15/9/1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân,
trong đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Năm 1942, Nhật chiếm cảng Cam Ranh,
đồng thời xây dựng thêm sân bay làm bàn đạp chính để đánh chiếm
Malaysia và các thuộc địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương.
Tượng đài Cam Ranh.
Trong chiến tranh Việt Nam, Cam Ranh là
một trong những căn cứ quân sự quan trọng nhất của quân đội Mỹ và Chính
quyền VNCH. Năm 1965, Mỹ quyết định xây dựng Cam Ranh thành căn cứ
quân sự liên hợp hải-lục-không quân và khu hậu cần lớn nhất Đông Nam Á
để làm căn cứ tiếp liệu, khí tài quân sự và binh sĩ cho chiến tranh
Việt Nam, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương. Tại
đây, Mỹ đã xây dựng căn cứ không quân gồm 1 sân bay có 2 đường băng với
chiều dài hơn 3.000m (10.000 feet) dùng cho các loại máybay hiện đại
kể cả B-52, 1 sân bay dùng cho trực thăng và hệ thống đường sá với tổng
chiều dài 260km…
Tháng 3/1967, chính quyền VNCH đã ký
hiệp định vùng bán đảo và vịnh Cam Ranh cho Mỹ trong 99 năm, bao gồm
một vùng rộng lớn với diện tích 260km2 và Mỹ đã biến Cam Ranh thành căn
cứ hải quân lớn nhất Đông Nam Á. Vịnh Cam Ranh trở thành trung tâm chỉ
huy cho các hoạt động tuần tra trên không của Hải quân Mỹ để giám sát
chiến dịch “Market Time”, nhằm ngăn chặn Quân VC . Căn cứ Cam Ranh trở
thành địa điểm chính sửa chữa tàu chiến và cung cấp đạn dược, hậu cần
cho hải quân, bao gồm cả cho tàu khu trục và tàu đổ bộ của Hạm đội 7,
Mỹ.
Năm 1968, quân số của quân đội Mỹ và các
lực lượng đồng minh ở Cam Ranh lên tới 30.000 quân (20.000 quân Mỹ và
10.000 quân của các nước đồng minh . Ở khu vực này còn xây dựng hệ thống
kho tàng hậu cần hoàn chỉnh, hệ thống ra đa, trận địa pháo và hệ
thống phòng không. Đặc biệt tại đây, quân đội Mỹ lần đầu tiên sử dụng
cá heo được huấn luyện để bảo vệ cảng Cam Ranh.
Cam Ranh thời bình – Căn cứ địa bảo vệ và dựng xây đất nước
Để khẳng định lại quan điểm của Việt
Nam, ngày 30/10/2010, tại cuộc họp báo kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 17 và các hội nghị cấp cao liên quan, Nguyễn Tấn Dũng đã thông
báo, Việt Nam đã quyết định sẽ tự mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng
nguồn lực của chính mình. Cảng này sẽ trở thành một Trung tâm cảng dịch
vụ tổng hợp, bảo đảm phục vụ Lực lượng Hải quân Việt Nam” và “Việt Nam
sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân của tất cả các quốc gia, kể
cả tàu ngầm, khi họ yêu cầu. Việt Nam sẽ cung cấp các dịch vụ như nhiều
các quốc gia khác đã làm và theo cơ chế thị trường.
Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về
Việt Nam và châu Á tại Học viện Quốc phòng Australia đã đánh giá cao
quyết định của Việt Nam khi cho rằng, hiện nay nhiều nước quan tâm đến
địa điểm và quyền tiếp cận hơn là thiết lập căn cứ. Việc mở cửa vịnh
Cam Ranh cho lực lượng Hải quân ngoại quốc là một ngón đòn ”bậc thầy”
trong chính sách đối ngoại “đa phương” của Việt Nam.
Khi Trung tâm Cảng dịch vụ hậu cần kỹ
thuật đi vào hoạt động, các tàu ngoại quốc sẽ được bảo đảm các dịch vụ
như tiếp nhiên liệu và các nhu yếu phẩm khác, bảo dưỡng, sửa chữa, thủy
thủ đoàn nghỉ ngơi. Nguồn tài chính từ các dịch vụ này sẽ giúp chúng
ta bù lại những chi phí cho các hoạt động cả dân sự và quân sự. Đồng
thời một mặt là cơ hội để cho VN nghiên cứu, học hỏi và tiếp cận những
kỷ nghệ đóng tàu hiện đại của thế giới, mặt khác VN bớt lãng phí về
năng lực. Chúng ta có quyền hy vọng Cam Ranh có thể trở thành một trong
những cảng dịch vụ tốt nhất trong khu vực trong những năm tới.
Nhiều nước chú ý đến cảng Cam Ranh. Đó
thường là những quốc gia đều có lợi ích thiết thân trong việc duy trì
quyền tự do thông thương ở Biển Đông. Sự hiện diện của tàu quốc tế tại
Cam Ranh nâng cao vị thế của Việt Nam.
Vốn là một căn cứ quân sự, được đánh
giá là một trong những cảng tự nhiên tốt nhất khu vực châu Á, Cam Ranh
chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược của Việt Nam chống lại
những hành động ngày càng quyết đoán của Trung Cộng trong cuộc tranh
chấp về chủ quyền tại Biển Đông, một trong những huyết mạch lưu thông
hải hàng trên thế giới.
Sau khi hải quân Nga rút khỏi
cảng Cam Ranh vào năm 2002, chính quyền CS Việt Nam đã tuyên bố xây
dựng khu vực này thành một cảng thương mại, không để cho hải quân nước
khác thuê. Thế nhưng, tình hình đã thay đổi.
Vào lúc Trung Cộng phát triển bộ máy
quân sự trong đó có lực lượng hải quân, đe dọa các nước nhỏ có tranh
chấp chủ quyền, gây hấn với các tàu khảo sát của Mỹ trong khu vực, vào
cuối năm ngoái, thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng, đã nói đến khả
năng cho tảu bè ngoại quốc vào cảng Cam Ranh để tiếp liệu hoặc sửa
chữa.
Theo giới quan sát, mặc dù Việt Nam có
quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Cộng và giới lãnh đạo hai nước luôn
nhắc đến tình hữu nghị láng giềng, thế nhưng, mối bang giao song phương
đang chịu nhiều sức ép do cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc
Kinh.
Trung Hoa đã xây dựng một căn cứ hải
quân ở đảo Hải Nam, phía bắc vùng biển có tranh chấp chủ quyền, nhằm
nâng cao khả năng can thiệp của hải quân và thực thi chính sách ngoại
giao cưỡng chế tại Biển Đông. Các sự kiện gần đây liên quan đến việc
tàu hải giám và ngư chính Trung Cộng cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu
Việt Nam ngay tại nơi mà Việt Nam coi là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý của mình, cho thấy quyết tâm chính trị của Bắc Kinh thực hiện các
yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông.
Một trong những phương cách đối phó của
Việt Nam là tìm cách quốc tế hóa hồ sơ tranh chấp chủ quyền, kêu gọi
các nước Đông Nam Á có liên quan như Mã Lai Phi Luật Tân , Brunei cùng
phối hợp đàm phán, và hoan nghênh Hoa Kỳ giúp làm dịu căng thẳng ở Biển
Đông.
Vì vậy, việc mở của cảng Cam Ranh đón tiếp tàu bè ngoại quốc nằm trong chiến lược của Việt Nam.
Theo giới chuyên gia về an ninh, việc thay đổi mục đích sử dụng cảng Cam Ranh sẽ tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng cho Việt Nam. Thế nhưng, lý do chính là để đối phó với sự thống trị của hải quân Trung Hoa tại Biển Đông, một vùng biển được đánh giá là có nhiều trữ lượng về dầu khí, nguồn hải sản dồi dào và có nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng.
Theo giới chuyên gia về an ninh, việc thay đổi mục đích sử dụng cảng Cam Ranh sẽ tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng cho Việt Nam. Thế nhưng, lý do chính là để đối phó với sự thống trị của hải quân Trung Hoa tại Biển Đông, một vùng biển được đánh giá là có nhiều trữ lượng về dầu khí, nguồn hải sản dồi dào và có nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng.
Theo thời báo Financial Times, thì hải
quân của rất nhiều nước đều quan tâm đến cảng Cam Ranh. Ngoài Hoa Kỳ và
Nga, còn có Ấn Độ, Nam Hàn , Úc… Đó là những quốc gia đều có lợi ích
thiết yếu trong việc duy trì quyền tự do thông thương ở Biển Đông.
Mặt khác, sự hiện diện của tầu bè các
nước tại Cam Ranh nâng cao vị thế của Việt Nam. Giống như trường hợp
của Singapore khi mở cửa cảng Changi đón tiếp hải quân Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Thái Lan và các nước khác. Điều này rõ ràng giúp cho Singapore cảm
thấy yên tâm hơn về an ninh, đồng thời tạo thêm một nguồn thu nhập cho
Singapore, khoảng 30 triệu đô la mỗi năm, qua việc cung ứng dịch vụ cho
tàu bè thế giới.
Cảng Cam Ranh nằm kẹp giữa dãy núi phía
tây Việt Nam và Biển Ðông, gần thành phố Nha Trang, ở miền nam. Ðây là
một trong những cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất khu vực châu Á. Trong
thế kỷ 19, chính quyền thực dân Pháp đã xây dựng căn cứ đóng tàu thủy
hiện đại đầu tiên ở Cam Ranh. Sau đó, cảng được mở rộng thêm 20 hải lý
theo hướng Bắc – Nam và 10 hải lý chiều rộng.
Người Pháp sau đó đã biến nơi đây thành
cảng quân sự. Năm 1940, quân đội Nhật Hoàng xâm chiếm Ðông Dương và sử
dụng cảng Cam Ranh làm nơi xuất phát của hải quân Nhật Bản. Trong chiến
tranh Việt Nam, quân đội Mỹ phát triển mạnh cảng quân sự Cam Ranh. Năm
1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao cho Hoa Kỳ quản lý cảng này.
Ðến năm 1972, Mỹ trả lại cho Việt Nam Cộng hòa trong khuôn khổ kế hoạch
Việt nam hóa chiến tranh của tổng thống Richard Nixon.
Sau năm 1975, hải quân Liên Xô, đồng
minh chiến lược của Cộng sản Việt Nam đã sử dụng quân cảng Cam Ranh. Năm
1979, Việt Nam cho hải quân Liên Xô thuê trong vòng 25 năm. Sau khi
Liên Xô sụp đổ, hải quân Liên bang Nga đã rút khỏi Cam Ranh trước thời
hạn, năm 2002. Cho đến nay, chỉ có một số tàu bè nhỏ của Việt Nam neo
tại cảng Cam Ranh.
Cuối năm 2010, Nguyễn Tấn Dũng mới nói đến việc mở cửa và phát triển cảng Cam Ranh để đón tiếp tàu bè nước ngoài.
TuoiTre USA
(Nguồn : Financial Times)
No comments:
Post a Comment